(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)
Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý
1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp
2. Vô thượng diệu pháp
* Đường triều Thiện Đạo Đại Sư nói: "Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải", hết thảy chư Phật xuất hiện tại thế gian giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh chính là để khuyên mọi người niệm Phật cầu sinh thế giới Cực Lạc, chỉ vì mỗi một việc như vậy.
* Kinh Hoa Nghiêm đã nói: "Một tức hết thảy, hết thảy chính là một", "một" là cái gì? Một chính là A Di Đà Phật. Niệm một câu A Di Đà Phật, chính là niệm hết thảy chư Phật; Niệm A Di Đà Kinh, chính là niệm vô lượng vô biên kinh luận mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói. Một câu danh hiệu bao quát hết thảy kinh, hết thảy pháp môn, không có một cái nào lọt mất, nguyên lai công đức của danh hiệu là như vậy. Chúng ta có lý trí, có trí tuệ, mới có thể lựa chọn pháp môn cứu cánh liễu nghĩa đệ nhất này.
* Niệm Phật chẳng những là thiện trong thiện, cũng là phước trong phước, bởi vì câu Phật hiệu là vạn đức hồng danh, là tánh đức xưng hiệu, nhất tâm niệm Phật, có thể nói vô lượng hạnh môn của Bồ Tát hết thảy đều hàm nhiếp ở trong đó, chân chính là một tu hết thảy tu.
* Niệm A Di Đà Phật, chính là đem thiện căn của A Di Đà Phật, biến thành thiện căn của chính chúng ta; đem phước đức của A Di Đà Phật biến thành phước đức của chính chúng ta. A Di Đà Phật là nhiều đời nhiều kiếp tu thành, chúng ta niệm niệm dính vào khí phận của ngài, liền cùng ngài không hai không khác.
* Pháp môn niệm Phật này là được Phật đặc biệt gia trì, không giống với những pháp môn bình thường khác, cho nên cổ đại đức xưng là "môn dư đại đạo", cái "môn" đó chính là tám vạn bốn ngàn pháp môn, một con đường thành Phật đặc biệt, rộng lớn, nằm ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, gọi là môn dư đại đạo.
* Pháp môn niệm Phật chân thật là giản ước, tinh yếu, danh xứng với thực, người người có thể tu, người người có thể thành tựu, chỉ xem chính mình có chịu hay không, chỉ cần có thể tin, chịu phát nguyện, vô thượng Bồ Đề mỗi người đều có phần. Trên từ Đẳng Giác Bồ Tát, dưới tới địa ngục chúng sinh, không một ai là không độ, tam căn phổ bị, lợi độn toàn thu.
* A Di Đà Phật là dịch âm tiếng Phạn, ý nghĩa rất nhiều, dịch thành ý nghĩa theo tiếng Trung: "A" dịch là Vô, "Di Đà" dịch là Lượng, "Phật" là Trí, là Giác. Danh hiệu này chính là vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ. Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác là ai? Là chính mình. Cho nên nhìn thấy A Di Đà Phật liền nhắc nhở chính mình, ta cần phải mọi thứ đều giác, mọi thứ đều không mê, đây chính là A Di Đà Phật.
* Từ trên mặt lý mà giảng, A Di Đà Phật ý nghĩa là Vô Lượng Giác, chúng ta mặc dù chính mình chưa giác, nhưng là tâm cùng miệng tương ưng, niệm niệm Vô Lượng Giác, bất tri bất giác liền thật sự giác, thật sự là có lực lượng không thể nghĩ bàn. Câu Phật hiệu này không chỉ có là đức hiệu của Tây Phương Cực Lạc thế giới đạo sư, cũng là danh hiệu tự tánh của hết thảy chúng sinh. Niệm câu Phật hiệu này, là niệm toàn thể pháp giới, là niệm hết thảy chư Phật Bồ Tát, là niệm chân như bản tánh của chính mình.
* A Di Đà Phật là dịch âm từ tiếng Phạn, trong đó cũng có ý nghĩa là "Vô Lượng Thọ", cho nên Phật tại trong Kinh A Di Đà giới thiệu cho chúng ta, gọi là Vô Lượng Thọ cũng gọi là Vô Lượng Quang. Vô Lượng Quang Thọ chính là A Di Đà Phật dịch ý.
* Mặc dù nói "Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp", tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều có thể một đời thành Phật, vấn đề là phải có thể đoạn phiền não, Kiến Tư phiền não không đoạn, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cần chúng ta có thể phục được nghiệp liền có thể vãng sinh, Kiến Tư phiền não không đoạn cũng được. Phục là gì? Đem nó khống chế lại, tuy có nghiệp tập chủng tử, không cho nó khởi hiện hành. Cho nên pháp môn niệm Phật được hết thảy chư Phật tán thán, đạo lý chính là ở đây.
* Trong tất cả mọi pháp môn, pháp môn niệm Phật phương tiện nhất, chướng duyên của nó ít, chính là đi đứng nằm ngồi, hết thảy thời, hết thảy chỗ đều có thể dụng công. Không giống pháp môn khác, phải có hoàn cảnh điều kiện tu học nhất định, hoàn cảnh điều kiện không đủ liền rất phiền phức. Duy chỉ có pháp môn niệm Phật dễ dàng, cho nên gọi nó là Dị Hành đạo, xác thực là một pháp môn phương tiện nhất.
* Vô lượng pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều phải làm được vô trụ mới có thể đắc độ. Chúng ta nếu như làm không được, vậy cần phải chuyên môn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật có trụ còn có thể vãng sinh. Các pháp môn khác tâm nếu như có trụ, quyết định không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Chúng ta biết sự thật này, mới có thể lão thật niệm Phật, bởi vì ngoại trừ một môn này ra, còn lại đều không cứu nổi.
* Pháp môn niệm Phật là nhị lực pháp môn, phàm phu vãng sinh không phải dựa vào chính mình, phần nhiều là nhờ vào Phật lực gia trì, không chỉ có là A Di Đà Phật oai thần gia trì, mười phương ba đời tất cả chư Phật lực lượng thảy đều gia trì. Chúng ta nhất tâm xưng niệm cũng phải cầu Phật gia trì, Phật không gia trì, nhất tâm không dễ thành tựu, tâm không điên đảo càng phải cầu Phật gia trì. Chính chúng ta chỉ cần đầy đủ tin sâu nguyện thiết, y giáo phụng hành, còn lại hoàn toàn đều phải nhờ vào Phật lực.
* Người ngũ nghịch thập ác, vào lúc lâm chung đầu óc tỉnh táo, cũng gặp được thiện tri thức dạy hắn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, hắn lập tức liền tiếp nhận, không chút nghi ngờ, một lòng niệm Phật chuyên cầu Tịnh Độ, dạng này xác thực mười niệm hoặc là một niệm cũng đều có thể vãng sinh, điều này thực không thể nghĩ bàn.
* Vô Lượng Thọ Kinh là Tịnh Độ đệ nhất kinh, đem Tịnh Độ đạo lý, phương pháp, cảnh giới đều nói được rất kỹ càng. Trong đề kinh, "thanh tịnh bình đẳng giác", đây là mục tiêu mà Phật yêu cầu đối với tu hành của chúng ta, "Đại Thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm", đó là quả báo Tịnh Độ, từ đâu tới? Từ "thanh tịnh bình đẳng giác" tới, người tu Tịnh Độ, tiêu chuẩn chính là năm chữ này.
3. Hân cầu Cực Lạc
4. Vãng sinh tư lương
...
* Niệm Phật chẳng những là thiện trong thiện, cũng là phước trong phước, bởi vì câu Phật hiệu là vạn đức hồng danh, là tánh đức xưng hiệu, nhất tâm niệm Phật, có thể nói vô lượng hạnh môn của Bồ Tát hết thảy đều hàm nhiếp ở trong đó, chân chính là một tu hết thảy tu.
* Niệm A Di Đà Phật, chính là đem thiện căn của A Di Đà Phật, biến thành thiện căn của chính chúng ta; đem phước đức của A Di Đà Phật biến thành phước đức của chính chúng ta. A Di Đà Phật là nhiều đời nhiều kiếp tu thành, chúng ta niệm niệm dính vào khí phận của ngài, liền cùng ngài không hai không khác.
* Pháp môn niệm Phật này là được Phật đặc biệt gia trì, không giống với những pháp môn bình thường khác, cho nên cổ đại đức xưng là "môn dư đại đạo", cái "môn" đó chính là tám vạn bốn ngàn pháp môn, một con đường thành Phật đặc biệt, rộng lớn, nằm ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, gọi là môn dư đại đạo.
* Pháp môn niệm Phật chân thật là giản ước, tinh yếu, danh xứng với thực, người người có thể tu, người người có thể thành tựu, chỉ xem chính mình có chịu hay không, chỉ cần có thể tin, chịu phát nguyện, vô thượng Bồ Đề mỗi người đều có phần. Trên từ Đẳng Giác Bồ Tát, dưới tới địa ngục chúng sinh, không một ai là không độ, tam căn phổ bị, lợi độn toàn thu.
* A Di Đà Phật là dịch âm tiếng Phạn, ý nghĩa rất nhiều, dịch thành ý nghĩa theo tiếng Trung: "A" dịch là Vô, "Di Đà" dịch là Lượng, "Phật" là Trí, là Giác. Danh hiệu này chính là vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ. Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác là ai? Là chính mình. Cho nên nhìn thấy A Di Đà Phật liền nhắc nhở chính mình, ta cần phải mọi thứ đều giác, mọi thứ đều không mê, đây chính là A Di Đà Phật.
* Từ trên mặt lý mà giảng, A Di Đà Phật ý nghĩa là Vô Lượng Giác, chúng ta mặc dù chính mình chưa giác, nhưng là tâm cùng miệng tương ưng, niệm niệm Vô Lượng Giác, bất tri bất giác liền thật sự giác, thật sự là có lực lượng không thể nghĩ bàn. Câu Phật hiệu này không chỉ có là đức hiệu của Tây Phương Cực Lạc thế giới đạo sư, cũng là danh hiệu tự tánh của hết thảy chúng sinh. Niệm câu Phật hiệu này, là niệm toàn thể pháp giới, là niệm hết thảy chư Phật Bồ Tát, là niệm chân như bản tánh của chính mình.
* A Di Đà Phật là dịch âm từ tiếng Phạn, trong đó cũng có ý nghĩa là "Vô Lượng Thọ", cho nên Phật tại trong Kinh A Di Đà giới thiệu cho chúng ta, gọi là Vô Lượng Thọ cũng gọi là Vô Lượng Quang. Vô Lượng Quang Thọ chính là A Di Đà Phật dịch ý.
* Mặc dù nói "Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp", tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều có thể một đời thành Phật, vấn đề là phải có thể đoạn phiền não, Kiến Tư phiền não không đoạn, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cần chúng ta có thể phục được nghiệp liền có thể vãng sinh, Kiến Tư phiền não không đoạn cũng được. Phục là gì? Đem nó khống chế lại, tuy có nghiệp tập chủng tử, không cho nó khởi hiện hành. Cho nên pháp môn niệm Phật được hết thảy chư Phật tán thán, đạo lý chính là ở đây.
* Trong tất cả mọi pháp môn, pháp môn niệm Phật phương tiện nhất, chướng duyên của nó ít, chính là đi đứng nằm ngồi, hết thảy thời, hết thảy chỗ đều có thể dụng công. Không giống pháp môn khác, phải có hoàn cảnh điều kiện tu học nhất định, hoàn cảnh điều kiện không đủ liền rất phiền phức. Duy chỉ có pháp môn niệm Phật dễ dàng, cho nên gọi nó là Dị Hành đạo, xác thực là một pháp môn phương tiện nhất.
* Vô lượng pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều phải làm được vô trụ mới có thể đắc độ. Chúng ta nếu như làm không được, vậy cần phải chuyên môn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật có trụ còn có thể vãng sinh. Các pháp môn khác tâm nếu như có trụ, quyết định không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Chúng ta biết sự thật này, mới có thể lão thật niệm Phật, bởi vì ngoại trừ một môn này ra, còn lại đều không cứu nổi.
* Pháp môn niệm Phật là nhị lực pháp môn, phàm phu vãng sinh không phải dựa vào chính mình, phần nhiều là nhờ vào Phật lực gia trì, không chỉ có là A Di Đà Phật oai thần gia trì, mười phương ba đời tất cả chư Phật lực lượng thảy đều gia trì. Chúng ta nhất tâm xưng niệm cũng phải cầu Phật gia trì, Phật không gia trì, nhất tâm không dễ thành tựu, tâm không điên đảo càng phải cầu Phật gia trì. Chính chúng ta chỉ cần đầy đủ tin sâu nguyện thiết, y giáo phụng hành, còn lại hoàn toàn đều phải nhờ vào Phật lực.
* Người ngũ nghịch thập ác, vào lúc lâm chung đầu óc tỉnh táo, cũng gặp được thiện tri thức dạy hắn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, hắn lập tức liền tiếp nhận, không chút nghi ngờ, một lòng niệm Phật chuyên cầu Tịnh Độ, dạng này xác thực mười niệm hoặc là một niệm cũng đều có thể vãng sinh, điều này thực không thể nghĩ bàn.
* Vô Lượng Thọ Kinh là Tịnh Độ đệ nhất kinh, đem Tịnh Độ đạo lý, phương pháp, cảnh giới đều nói được rất kỹ càng. Trong đề kinh, "thanh tịnh bình đẳng giác", đây là mục tiêu mà Phật yêu cầu đối với tu hành của chúng ta, "Đại Thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm", đó là quả báo Tịnh Độ, từ đâu tới? Từ "thanh tịnh bình đẳng giác" tới, người tu Tịnh Độ, tiêu chuẩn chính là năm chữ này.
3. Hân cầu Cực Lạc
4. Vãng sinh tư lương
...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét