Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

Tịnh Độ Thập Yếu - Ngẫu Ích Đại Sư


TỊNH ĐỘ THẬP YẾU
Ngẫu Ích Đại Sư tuyển chọn


"Một sách là Tịnh Độ Thập Yếu, mỗi chữ đều là lời hướng dẫn trong đời Mạt Pháp, mỗi lời đều là gương báu của Liên Tông. Buồn khóc ứa lệ, mổ tim vẩy máu, xứng tánh phát huy, tùy căn cơ mà chỉ bày. Dẫu có ví là vớt người chết đuối, cứu kẻ đang bị lửa thiêu cũng không thể sánh ví được nỗi lòng thống thiết của bộ sách ấy. Bỏ cuốn sách này đi thì chánh tín không thể do đâu mà sanh, tà kiến không do đâu mà diệt! Trong cuốn sách ấy, quan trọng nhất là sách Yếu Giải. Sách này chính là hướng dẫn tốt lành trên đường hiểm để người sơ tâm nhập môn đoạn nghi sanh tín, chỉ bày nẻo ắt phải theo để về được bảo sở. Sách Tịnh Độ Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, sách Trực Chỉ của ngài Diệu Hiệp, thật là những bậc công thần đột phá kiên nhuệ nhất." 
(Ấn Quang Đại Sư)


1. Đệ Nhất Yếu
Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải (Ngẫu Ích Đại Sư)

2. Đệ Nhị Yếu
Vãng Sanh Tịnh Độ Sám Nguyện Nghi (Tuân Thức Đại Sư)
Vãng Sanh Tịnh Độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn (Tuân Thức Đại Sư)

3. Đệ Tam Yếu
– Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sơ Tâm Tam Muội Môn (Thành Thời Đại Sư)
– Thọ Trì Phật Thuyết A Di Đà Kinh Hạnh Nguyện Nghi (Thành Thời Đại Sư)
(chưa có bản dịch)

4. Đệ Tứ Yếu
Tịnh Độ Thập Nghi Luận (Trí Giả Đại Sư)

5. Đệ Ngũ Yếu
Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận (Phi Tích Đại Sư)

6. Đệ Lục Yếu
Tịnh Ðộ Hoặc Vấn (Thiên Như Đại Sư)

7. Đệ Thất Yếu
Tây Trai Tịnh Độ Thi (Phạm Kỳ Đại Sư)
(chưa tìm được bản dịch hoàn chỉnh)

8. Đệ Bát Yếu
Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ (Diệu Hiệp Đại Sư)

9. Đệ Cửu Yếu
Tịnh Độ Sinh Vô Sinh Luận (U Khê Đại Sư)
Tịnh Độ Pháp Ngữ (U Khê Đại Sư)

10. Đệ Thập Yếu
Tây Phương Hợp Luận (Viên Hoằng Đạo Cư Sĩ)


Lời Tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu
(Trích từ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên)

     Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong suốt cả một đời tuy là Đại, Tiểu, Đốn, Tạm bất đồng, Quyền, Thật, Thiên, Viên sai khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm khiến cho hết thảy chúng sanh đều theo đường về nhà, khôi phục tâm tánh mà thôi! Nhưng những pháp ấy đều cần tự lực tu trì để đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, hoàn toàn không được một sức nào khác nhiếp trì hòng chắc chắn được siêu phàm nhập thánh, thành tựu sở nguyện ngay trong đời này! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào sức thệ nguyện, nhiếp thọ của Phật và lòng thành tín nguyện niệm Phật của chính mình, bất luận đã chứng ngộ hay không; thậm chí kẻ chưa đoạn mảy may Phiền Hoặc nào vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực liền được vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Đã được vãng sanh, nếu là người đã chứng ngộ liền lên thẳng Thượng Phẩm, kẻ chưa đoạn Hoặc vẫn dự vào dòng thánh.

     Do vậy biết pháp môn Tịnh Độ rộng lớn không có gì ra ngoài được, như trời che khắp, dường đất chở đều, thống nhiếp các căn cơ trọn chẳng sót vật nào! Thật có thể nói là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn và độn căn. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được; dưới là phàm phu nghịch ác vẫn có thể dự vào trong đó. Thỏa thích bản hoài xuất thế của đức Như Lai, mở ra con đường chánh để chúng sanh trở về nguồn. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.

     Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, bỏ pháp này tu pháp khác thì chẳng những hàng phàm phu bộn bề phiền não chẳng có cách nào thoát ly sanh tử, mà ngay cả bậc thánh nhân Thập Địa cũng khó viên mãn Bồ Đề! Vì vậy, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh đều phát tâm Kim Cang hoằng truyền, tán dương, ngõ hầu lục đạo, tam thừa đều được vượt ngang ra khỏi tam giới, khôi phục lại tâm tánh vốn có. Trước thuật tại Thiên Trúc và Chấn Đán (Trung Hoa) [để tuyên giảng pháp môn này] nhiều khó thể kể xiết! Đại sư Ngẫu Ích chọn lấy chín tác phẩm khế hợp thời cơ nhất và bộ Di Đà Yếu Giải do chính mình trước tác, [gộp thành một bộ sách] đặt tên là Tịnh Độ Thập Yếu, muốn cho người học nhờ [xem] những tác phẩm này sẽ hiểu trọn vẹn chỗ trọng yếu trong sự độ sanh của đức Như Lai và nguyên do pháp này thống nhiếp khắp hết thảy các pháp.

     Đại Sư mất rồi, môn nhân là Thành Thời muốn [tác phẩm này] được lưu truyền trọn khắp pháp giới, nhưng sợ văn từ dài dòng, số lượng quyển quá lớn, chi phí lớn lao, khó thể [lưu truyền] rộng khắp được, bèn tóm lược câu chữ, đối với mỗi tác phẩm chỉ trình bày đại lược những ý chánh quan trọng, thêm vào những điều bình luận, quả thật hết sức lao tâm khổ tứ! Tiếc rằng Sư ỷ mình trí có thể chiếu soi trọn vẹn, đọc đến đâu, trích lược đến đấy, chẳng bỏ công tra duyệt lại, cứ cho khắc in ngay, đến nỗi lời văn nhiều chỗ mù mờ, lại thêm giọng điệu sai lầm, lời lẽ chẳng đạt ý vậy!

     Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), cư sĩ Từ Úy Như đến thăm Quang; do ông ta lo liệu việc khắc in Tạng kinh, tôi bèn cậy ông ta sưu tập, khắc in bản gốc [của bộ Tịnh Độ Thập Yếu]. Sau đấy, ông ta bèn khắc in hai tác phẩm là Di Đà Yếu Giải và Tây Phương Hiệp Luận. Nay đã có được nguyên bản đầy đủ, cư sĩ Lý Viên Tịnh tính tái bản theo đúng như hình thức sách Tịnh Độ Thập Yếu [đã được in] trước kia: Phàm mỗi một lời bình luận do sư Thành Thời đã viết đều chiếu theo đó sao lục, chỉ bổ sung những chỗ sư Thành Thời khiếm khuyết, hòng chẳng diệt mất sự cực trí của sư Thành Thời, soạn thành bốn quyển. Do những chỗ trích lược khác nhau bao nhiêu đó chỗ, cho nên phải sắp xếp lại thứ tự từng quyển. Trước kia, Tây Trai Thi, Niệm Phật Trực Chỉ thứ tự trước - sau bị đảo lộn, nay sắp xếp lại cho thích đáng; cuối mỗi quyển đều kèm theo những bài văn quan trọng và [những đoạn trích từ] Triệt Ngộ Ngữ Lục. Lại còn đem Vãng Sanh Luận Chú và Liên Hoa Thế Giới Thi gộp thành một quyển để làm phụ bản, tổng cộng là năm quyển, thảy đều phù hợp với lời văn, ý nghĩa và tông chỉ của sách Thập Yếu, hoàn toàn chẳng khác biệt. Giống như những hạt châu nơi cái lưới của Thiên Đế soi bóng lẫn nhau, khiến cho những người đọc biết sâu xa pháp môn Tịnh Độ chính là chỗ quy túc của hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu lộ từ pháp giới này, chẳng trở về pháp giới này!

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (4)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý

1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp
3. Hân cầu Cực Lạc
4. Vãng sinh tư lương

* Điều kiện để [vãng sinh] Tịnh Độ chính là ba tư lương, thứ nhất phải tin sâu không nghi ngờ, thứ hai phải có đại nguyện khẩn thiết, chúng ta trong một đời này chỉ có một cái nguyện vọng, chính là gặp A Di Đà Phật, sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta nhất tâm nhất ý niệm A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, thứ khác đều tạm thời đặt ở bên cạnh, không quan tâm đến nó, như vậy mới được.

* Triệt Ngộ Đại Sư nói: "Thật vì sinh tử, phát Bồ Đề Tâm, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật", mười sáu chữ này chúng ta phải đem nó ghi nhớ kỹ, thật vì sinh tử, không còn làm sinh tử luân hồi, bởi vì sinh tử luân hồi khổ không nói nổi.

* Pháp môn niệm Phật là nan tín chi pháp (pháp khó tin), khó khăn nhất chính là tại tín tâm, hạnh không khó. Nếu như có thể đầy đủ tin sâu, không nghi ngờ, tu học cái pháp môn này quyết định có thể thành tựu. Có tín mới có nguyện, nguyện ý cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu không có lòng tin, cho dù trên miệng nói nguyện ý muốn vãng sinh Tây Phương, trên thực tế tín tâm không đủ, có hoài nghi, cái nguyện này liền không thật. Cho nên phải tin sâu nguyện thiết.

* Thích Ca Mâu Ni Phật ở trên Kinh Vô Lượng Thọ đối với A Di Đà Phật tán thán, Thích Ca tán thán chính là đại biểu mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán, tán thán A Di Đà Phật "Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương" (Quang minh tôn quý nhất, là vua trong các vị Phật), tán thán đến cực điểm. Chúng ta nghe hết thảy chư Phật đối với A Di Đà Phật tán thán như vậy, tín tâm được kiến lập, nguyện tâm được kiến lập, hạnh tâm cũng được kiến lập, tin sâu nguyện thiết, vãng sinh liền có phần!

* Trong Đại Kinh (Kinh Vô Lượng Thọ) đưa ra tông chỉ niệm Phật tu hành, "phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm", phát Bồ Đề tâm chính là tín nguyện, nhất hướng chuyên niệm chính là chấp trì danh hiệu, hai câu này chính là ba món tư lương Tín Nguyện Hạnh mà tiểu bổn A Di Đà Kinh nói tới, ba điều này thiếu một thứ cũng không được.

* Cái gì gọi là Bồ Đề Tâm, Ngẫu Ích Đại Sư ở trong Yếu Giải nói hay lắm: "Nhất tâm chuyên chí cầu sinh Tịnh Độ, cái tâm ấy chính là Vô Thượng Bồ Đề Tâm". Chúng ta nhất tâm nhất ý chỉ cầu Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cầu gặp A Di Đà Phật, những thứ khác hết thảy buông xuống, quyết định không còn để ở trong lòng, người này chính là [đã] có đủ viên mãn Bồ Đề Tâm.

* Ngẫu Ích Đại Sư nói rất hay: "Đắc sanh dữ phủ, toàn do tín nguyện chi hữu vô; phẩm vị cao hạ, toàn do trì danh chi thâm thiển", có thể vãng sinh hay không quyết định tại tín nguyện có hay không, phẩm vị cao hay thấp quyết định ở công phu niệm Phật sâu hay cạn, niệm Phật có thể vãng sinh hay không quyết định tại tín nguyện, cho nên tin sâu nguyện thiết, dạng người này nhất định vãng sinh.

* Pháp môn niệm Phật mặc dù dễ dàng, đơn giản, nhưng là tín nguyện nhất định phải có đủ. Chúng ta có tín tâm phi thường thanh tịnh, có nguyện vọng mãnh liệt [muốn] vãng sinh thế giới Cực Lạc, cái lực lượng tín nguyện này nhất định phải vượt qua nghiệp lực, vậy liền quyết định vãng sinh.

* Tin sâu, chúng ta cũng phi thường muốn tin sâu, [nhưng] cái lòng tin này chính là sinh không nổi, nguyên nhân ở nơi nào? Đối với hai thế giới nhận thức không đủ rõ ràng, thấu triệt. Phải làm thế nào? Đọc kinh, đọc nhiều suy nghĩ nhiều, chúng ta đối với trạng huống của hai cái thế giới này chậm rãi liền rõ ràng, minh bạch. Phàm những người tín nguyện phù phù phiếm phiếm, đều là đối với Sa Bà cùng Cực Lạc không có quan sát minh bạch.

* Câu danh hiệu A Di Đà Phật này có đủ nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên. Thế nhưng là câu Phật hiệu này nhất định phải có đủ tín nguyện, mới có thể trở thành nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên. Nếu như không có tin sâu nguyện thiết, thiện căn, phước đức, nhân duyên trong câu Phật hiệu này liền ít đi, ít đi thì lực lượng liền không đủ, không có cách nào thúc đẩy chúng ta thành tựu vãng sinh.

* Một câu A Di Đà Phật này phải niệm thế nào? Một câu A Di Đà Phật này là dựa trên thâm tín thiết nguyện của chính mình mà niệm ra, câu Phật hiệu này mới tương ưng, đây là phương pháp tu hành, chánh hạnh đích thực của Tịnh Tông. Câu Phật hiệu này treo ở trên miệng, tin không sâu, nguyện không thiết, đây chẳng qua là cùng A Di Đà Phật kết cái thiện duyên, một đời này không thể vãng sinh.

* Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa Tiết Yếu nói: "Trì danh niệm phật, ám hợp đạo diệu, tức thị hành thâm Bát Nhã, vô dị niệm Thực Tướng, thị cố năng diệt trọng tội, năng tiêu trọng nghiệp" (Trì danh niệm Phật, thầm hợp đạo diệu, chính là hành thâm Bát Nhã, không khác niệm Thực Tướng, cho nên có thể diệt trọng tội, có thể tiêu trọng nghiệp), tội nghiệp nặng hơn nữa, câu Phật hiệu này đều có thể đem nó tiêu đến sạch sẽ, cho nên trì danh niệm Phật cái pháp môn này phi thường bất khả tư nghị.

* Trì danh niệm Phật chính là thiện căn trong thiện căn, chúng ta không có thiện căn, không sợ, niệm Phật chính là bồi dưỡng thiện căn, niệm được càng nhiều, thiện căn liền càng thâm hậu.

* Trì danh niệm Phật phải làm đến tâm như Phật, nguyện như Phật, giải như Phật, hạnh như Phật, thì "nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật". Niệm Phật phải chân chính niệm ra tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi của chúng ta, đây là tâm niệm Phật. Trì danh tuyệt đối không phải là "hữu khẩu vô tâm" (miệng niệm nhưng tâm không niệm), nhất định phải niệm niệm nguyện nguyện đều tương ứng với bốn mươi tám đại nguyện của A Di Đà Phật, bốn mươi tám đại nguyện tổng kết lại chính là niệm niệm vì cứu độ hết thảy chúng sinh, chính là trợ giúp hết thảy chúng sinh vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đây là tâm của Phật A Di Đà.

* Vãng sinh "phẩm vị cao hay thấp, toàn do trì danh sâu hay cạn", thế nào gọi là sâu, thế nào gọi là cạn? Tâm cùng miệng tương ưng gọi là sâu, tâm [cùng] miệng không tương ưng gọi là cạn. Trong miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm nghĩ sự tình khác, cái này chính là cạn, hữu khẩu vô tâm! Trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, tâm cùng miệng tương ưng, dạng này chính là sâu. Còn có một cái cách nói, chính là niệm cùng tín nguyện tương ưng, niệm niệm có đủ thâm tín thiết nguyện, cái niệm này liền sâu. Mặc dù niệm A Di Đà Phật, tin không sâu, nguyện cũng không thiết, cái niệm này liền cạn.

* "Chấp trì danh hiệu", cái "trì" này ý nghĩa là bảo trì, không gián đoạn. Cái "chấp" này chính là chấp trước, chấp trước một câu Phật hiệu "A Di Đà Phật", dùng một cái chấp trước này thay thế tất cả chấp trước, ta chỉ chấp trước một câu Phật hiệu này, những thứ khác hết thảy đều buông xuống. Cái pháp môn này diệu!

* Cổ nhân giảng tin sâu nguyện thiết, Tín Nguyện Hạnh, trong đó là nói rõ đã buông xuống, như vậy thì có thể vãng sinh. Nhưng đối với người hiện thời, mặc dù có tin sâu nguyện thiết, nhưng đối với thế gian này còn có dính mắc trong lòng không buông xuống được, như vậy thì chưa hẳn được vãng sinh. Cho nên nhất định phải nói nhiều thêm vài câu, chính là ngoài Tín Nguyện Hạnh ra, còn phải "buông xuống vạn duyên", có đủ hai cái điều kiện này, quyết định được [vãng] sinh.

5. Niệm Phật công phu
...

Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2017

Pháp Uyển Châu Lâm


Sách PDF: PHÁP UYỂN CHÂU LÂM - Quyển 1-33 | Quyển 34-66 | Quyển 67-100
(Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh)

"Sách Pháp Uyển Châu Lâm (một trăm quyển. Chùa Thiên Ninh ở Thường Châu phân thành ba mươi tập) bàn luận chi tiết về nhân quả, Lý - Sự cùng nêu, rành mạch phân minh. Đọc đến khiến người không lạnh mà rét buốt; dẫu ở trong nhà tối, phòng kín thường như đối trước Phật, trời, chẳng dám chớm một tí ác niệm. Thượng trung hạ căn đều được lợi ích, trọn chẳng đến nỗi lầm lẫn đường nẻo, chấp lý phế sự, rớt vào thói tệ thiên lệch, tà vạy, cuồng vọng."
(Ấn Quang Đại Sư)

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (3)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý

1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp

3. Hân cầu Cực Lạc

* A Di Đà Phật tại nhân địa phát bốn mươi tám đại nguyện, thành tựu Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới là lấy mười phương hết thảy chư Phật sát độ làm bản thiết kế, chọn lấy những ưu điểm, bỏ đi khuyết điểm, nó là tập hợp mười phương chư Phật sát độ viên mãn đại thành, Tây Phương Cực Lạc thế giới là [được hình thành] như thế đó.

* Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, nguyện nguyện đều là vì độ chúng sinh, nguyện nguyện dung nhiếp lẫn nhau. Bất kỳ một nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện, đều bao hàm bốn mươi bảy nguyện còn lại, vì thế nên cái nguyện đó mới viên mãn, cái nguyện đó mới chân thực. Cái nguyện này mới sản sinh lực lượng không thể nghĩ bàn, có thể phổ nhiếp pháp giới chúng sinh, cũng chính là nói [cái nguyện này] tương ưng với tâm tánh của hết thảy pháp giới chúng sinh.

* Tại thế giới Cực Lạc không có nhân duyên để chúng ta sinh phiền não, thế giới kia là "chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ" (các vị thượng thiện nhân nhóm họp một chỗ), thượng thiện là chỉ Đẳng Giác Bồ Tát, người mà chúng ta tiếp xúc là Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng Giác là như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc. Người sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm vãng sinh, đều có thể cùng những vị Đẳng Giác Bồ Tát này bình khởi bình tọa, thực là không thể nghĩ bàn.

* Tây Phương Cực Lạc thế giới rốt cuộc là có những điểm nào vượt qua hết thảy chư Phật sát độ? Thứ nhất mang nghiệp vãng sinh, thứ hai vãng sinh liền bất thoái, thứ ba sinh đến chỗ đó, quyết định một đời viên mãn thành Phật. Ba việc này trong hết thảy chư Phật sát độ là không có, chỉ có thế giới Cực Lạc có, cho nên gọi là pháp môn đặc biệt.

* Tây Phương thế giới xác thực là một thế giới phi thường kỳ diệu, nó cũng không giống với thế giới của mười phương chư Phật, bởi vì người vãng sinh cho dù là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới liền cùng Vô Lượng Quang Thọ với A Di Đà Phật. Phật là Vô Lượng Quang, người ấy cũng Vô Lượng Quang, Phật là Vô Lượng Thọ, người ấy cũng Vô Lượng Thọ.

* Hễ vãng sinh Tây Phương thế giới, dù cho là hạ phẩm hạ sinh, cũng viên chứng Tam Bất Thoái. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, Biệt Giáo Sơ Địa Bồ Tát, mới chứng Tam Bất Thoái, nhưng là không viên mãn. Ai mới viên mãn chứng đắc Tam Bất Thoái? Đẳng Giác Bồ Tát. Cho nên hạ phẩm hạ sinh viên chứng Tam Bất Thoái, cũng chính là người hạ phẩm hạ sinh tại Tây Phương Cực Lạc thế giới bằng với Đẳng Giác Bồ Tát, điều này chân thật là không thể nghĩ bàn, đây là nan tín chi pháp.

* Niệm Phật vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dù cho là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, đều là chứng quả. Chứng quả gì? Chứng quả Vô Thượng Bồ Đề. Một đời chứng đắc Phật quả cứu cánh viên mãn, không cần đời thứ hai. Thế giới Cực Lạc, Phật Vô Lượng Thọ, sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mỗi người đều là Vô Lượng Thọ, cho nên quyết định một đời thành Phật, bởi vậy pháp môn niệm Phật gọi là một đời thành tựu.

* Tây Phương Cực Lạc thế giới tứ độ, đó là bình đẳng, dù cho sinh đến thế giới Cực Lạc hạ hạ phẩm Đồng Cư Độ, chẳng những ngày ngày nghe A Di Đà Phật giảng kinh thuyết pháp, cũng có thể nhìn thấy Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, các ngài ở tại nơi nào? Tại Thực Báo Độ. Những Đại Bồ Tát ở Thực Báo Độ này cùng với hạ hạ phẩm Phàm Thánh Đồng Cư Độ cũng thường thường cùng một chỗ, cái duyên phận này khó được! Lão sư là chư Phật Như Lai, đồng học là chư Đại Bồ Tát, chúng ta thường thường cùng các ngài thân cận, tiến bộ rất nhanh, sẽ không lùi bước, chúng ta đi nơi nào mà tìm cái hoàn cảnh tu học này?

* Tại thế giới Cực Lạc, chúng ta ngồi ở nơi đó nghe A Di Đà Phật giảng kinh thuyết pháp, có thể phân vô lượng vô biên thân đến mười phương thế giới đi cúng dường chư Phật Như Lai, nghe Phật thuyết pháp. Dùng cái gì cúng dường? Hương hoa, trân bảo. Từ đâu tới? Từ trên tay biến hiện ra. Trên tay có thể biến ra vô lượng trân bảo cúng Phật, cúng Phật là tu phước, tại Phật bên đó nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Cho nên tại thế giới Cực Lạc tu hành thành Phật rất dễ dàng, rất nhanh chóng. Đây là duyên phận [mà] trong mười phương thế giới không có, thế giới Cực Lạc có đầy đủ.

* Trong hết thảy thế giới, phiền toái nhất chính là tình chấp, tình chấp rất khó đoạn! A Di Đà Phật đã nhìn ra, cho nên sinh đến thế giới Cực Lạc, chỗ đó không có phụ mẫu, sinh ở đâu? Trong hoa sen, hoa sen hoá sinh. A Di Đà Phật một chiêu này phi thường cao minh, khiến cho chúng ta tại Tây Phương Cực Lạc thế giới không có dính mắc về thân tình, tâm của chúng ta liền sẽ thanh tịnh, bình đẳng.

* Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ đổi một cái tử ma chân kim sắc thân. Tướng mạo trang nghiêm, cùng một dạng với tướng mạo của A Di Đà Phật, "Thân hữu vô lượng tướng, tướng hữu vô lượng hảo" (Thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo). Chúng ta hiện tại cái tướng này quá xấu xí, muốn đổi tướng tốt, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân thể này không cần nữa, vứt bỏ đi, vì thế đó là còn sống mà đi, quyết định không phải chết rồi mới đi. Cho nên pháp môn niệm Phật là pháp môn không già, pháp môn không bệnh, pháp môn không chết, chúng ta đi đâu mà tìm?

* Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh giảng, một người niệm Phật sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, người đó tại thế giới Cực Lạc tu đến minh tâm kiến tánh, tu đến khế nhập Thật Báo Trang Nghiêm Độ, cần bao nhiêu thời gian? Mười hai kiếp. Từ chúng ta thế giới này tu hành, muốn tu chứng đến đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, cần bao nhiêu thời gian? Vô lượng kiếp. Trong sát độ của chư Phật tu hành cần vô lượng kiếp, tại Tây Phương Cực Lạc thế giới mười hai kiếp, bạn xem thời gian này rút ngắn nhiều hay ít?

* A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện giảng được rất rõ ràng, sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đều làm A Duy Việt Trí Bồ Tát, chúng ta liền có năng lực cùng một dạng với Pháp Thân Bồ Tát, “thiên xứ kỳ cầu, thiên xứ ứng” (ngàn xứ khẩn cầu, ngàn xứ ứng). Chỗ nào chúng sinh có cảm, liền có thể đi nơi đó trợ giúp bọn họ phá mê khai ngộ, nên dùng thân gì để độ được, chúng ta liền có thể hiện thân đó, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong tất cả pháp môn đây là phương pháp ổn định nhất, hiệu quả lớn nhất, nhanh chóng nhất, mà lại quyết định có thể làm được.

4. Vãng sinh tư lương
...

Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (2)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý


1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp

* Đường triều Thiện Đạo Đại Sư nói: "Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải", hết thảy chư Phật xuất hiện tại thế gian giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh chính là để khuyên mọi người niệm Phật cầu sinh thế giới Cực Lạc, chỉ vì mỗi một việc như vậy.

* Kinh Hoa Nghiêm đã nói: "Một tức hết thảy, hết thảy chính là một", "một" là cái gì? Một chính là A Di Đà Phật. Niệm một câu A Di Đà Phật, chính là niệm hết thảy chư Phật; Niệm A Di Đà Kinh, chính là niệm vô lượng vô biên kinh luận mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói. Một câu danh hiệu bao quát hết thảy kinh, hết thảy pháp môn, không có một cái nào lọt mất, nguyên lai công đức của danh hiệu là như vậy. Chúng ta có lý trí, có trí tuệ, mới có thể lựa chọn pháp môn cứu cánh liễu nghĩa đệ nhất này.

* Niệm Phật chẳng những là thiện trong thiện, cũng là phước trong phước, bởi vì câu Phật hiệu là vạn đức hồng danh, là tánh đức xưng hiệu, nhất tâm niệm Phật, có thể nói vô lượng hạnh môn của Bồ Tát hết thảy đều hàm nhiếp ở trong đó, chân chính là một tu hết thảy tu.

* Niệm A Di Đà Phật, chính là đem thiện căn của A Di Đà Phật, biến thành thiện căn của chính chúng ta; đem phước đức của A Di Đà Phật biến thành phước đức của chính chúng ta. A Di Đà Phật là nhiều đời nhiều kiếp tu thành, chúng ta niệm niệm dính vào khí phận của ngài, liền cùng ngài không hai không khác.

* Pháp môn niệm Phật này là được Phật đặc biệt gia trì, không giống với những pháp môn bình thường khác, cho nên cổ đại đức xưng là "môn dư đại đạo", cái "môn" đó chính là tám vạn bốn ngàn pháp môn, một con đường thành Phật đặc biệt, rộng lớn, nằm ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, gọi là môn dư đại đạo.

* Pháp môn niệm Phật chân thật là giản ước, tinh yếu, danh xứng với thực, người người có thể tu, người người có thể thành tựu, chỉ xem chính mình có chịu hay không, chỉ cần có thể tin, chịu phát nguyện, vô thượng Bồ Đề mỗi người đều có phần. Trên từ Đẳng Giác Bồ Tát, dưới tới địa ngục chúng sinh, không một ai là không độ, tam căn phổ bị, lợi độn toàn thu.

* A Di Đà Phật là dịch âm tiếng Phạn, ý nghĩa rất nhiều, dịch thành ý nghĩa theo tiếng Trung: "A" dịch là Vô, "Di Đà" dịch là Lượng, "Phật" là Trí, là Giác. Danh hiệu này chính là vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ. Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác là ai? Là chính mình. Cho nên nhìn thấy A Di Đà Phật liền nhắc nhở chính mình, ta cần phải mọi thứ đều giác, mọi thứ đều không mê, đây chính là A Di Đà Phật.

* Từ trên mặt lý mà giảng, A Di Đà Phật ý nghĩa là Vô Lượng Giác, chúng ta mặc dù chính mình chưa giác, nhưng là tâm cùng miệng tương ưng, niệm niệm Vô Lượng Giác, bất tri bất giác liền thật sự giác, thật sự là có lực lượng không thể nghĩ bàn. Câu Phật hiệu này không chỉ có là đức hiệu của Tây Phương Cực Lạc thế giới đạo sư, cũng là danh hiệu tự tánh của hết thảy chúng sinh. Niệm câu Phật hiệu này, là niệm toàn thể pháp giới, là niệm hết thảy chư Phật Bồ Tát, là niệm chân như bản tánh của chính mình.

* A Di Đà Phật là dịch âm từ tiếng Phạn, trong đó cũng có ý nghĩa là "Vô Lượng Thọ", cho nên Phật tại trong Kinh A Di Đà giới thiệu cho chúng ta, gọi là Vô Lượng Thọ cũng gọi là Vô Lượng Quang. Vô Lượng Quang Thọ chính là A Di Đà Phật dịch ý.

* Mặc dù nói "Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp", tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều có thể một đời thành Phật, vấn đề là phải có thể đoạn phiền não, Kiến Tư phiền não không đoạn, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cần chúng ta có thể phục được nghiệp liền có thể vãng sinh, Kiến Tư phiền não không đoạn cũng được. Phục là gì? Đem nó khống chế lại, tuy có nghiệp tập chủng tử, không cho nó khởi hiện hành. Cho nên pháp môn niệm Phật được hết thảy chư Phật tán thán, đạo lý chính là ở đây.

* Trong tất cả mọi pháp môn, pháp môn niệm Phật phương tiện nhất, chướng duyên của nó ít, chính là đi đứng nằm ngồi, hết thảy thời, hết thảy chỗ đều có thể dụng công. Không giống pháp môn khác, phải có hoàn cảnh điều kiện tu học nhất định, hoàn cảnh điều kiện không đủ liền rất phiền phức. Duy chỉ có pháp môn niệm Phật dễ dàng, cho nên gọi nó là Dị Hành đạo, xác thực là một pháp môn phương tiện nhất.

* Vô lượng pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều phải làm được vô trụ mới có thể đắc độ. Chúng ta nếu như làm không được, vậy cần phải chuyên môn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật có trụ còn có thể vãng sinh. Các pháp môn khác tâm nếu như có trụ, quyết định không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Chúng ta biết sự thật này, mới có thể lão thật niệm Phật, bởi vì ngoại trừ một môn này ra, còn lại đều không cứu nổi.

* Pháp môn niệm Phật là nhị lực pháp môn, phàm phu vãng sinh không phải dựa vào chính mình, phần nhiều là nhờ vào Phật lực gia trì, không chỉ có là A Di Đà Phật oai thần gia trì, mười phương ba đời tất cả chư Phật lực lượng thảy đều gia trì. Chúng ta nhất tâm xưng niệm cũng phải cầu Phật gia trì, Phật không gia trì, nhất tâm không dễ thành tựu, tâm không điên đảo càng phải cầu Phật gia trì. Chính chúng ta chỉ cần đầy đủ tin sâu nguyện thiết, y giáo phụng hành, còn lại hoàn toàn đều phải nhờ vào Phật lực.

* Người ngũ nghịch thập ác, vào lúc lâm chung đầu óc tỉnh táo, cũng gặp được thiện tri thức dạy hắn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, hắn lập tức liền tiếp nhận, không chút nghi ngờ, một lòng niệm Phật chuyên cầu Tịnh Độ, dạng này xác thực mười niệm hoặc là một niệm cũng đều có thể vãng sinh, điều này thực không thể nghĩ bàn.

* Vô Lượng Thọ Kinh là Tịnh Độ đệ nhất kinh, đem Tịnh Độ đạo lý, phương pháp, cảnh giới đều nói được rất kỹ càng. Trong đề kinh, "thanh tịnh bình đẳng giác", đây là mục tiêu mà Phật yêu cầu đối với tu hành của chúng ta, "Đại Thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm", đó là quả báo Tịnh Độ, từ đâu tới? Từ "thanh tịnh bình đẳng giác" tới, người tu Tịnh Độ, tiêu chuẩn chính là năm chữ này.

3. Hân cầu Cực Lạc

4. Vãng sinh tư lương
...

Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (1)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý


Lời mở đầu
Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó được nghe nay đã nghe, khó sinh vào chính giữa đất nước nay đã được sinh, thiện hữu tri thức khó gặp nay đã được gặp. Hiện đời tuy may mắn gặp nhân duyên khó được này, nhưng chúng ta học Phật đã nhiều năm vẫn là phiền não không ngừng, gặp thuận cảnh khởi tâm tham, gặp nghịch cảnh sinh sân khuể. Chúng ta nhất định phải kiến lập tín tâm, khởi phát nguyện lực, kiên định chánh hạnh mới không uổng đời này.
Quyển sách này tập hợp chỉnh lý từ những lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư, trích lục tinh yếu công đức niệm Phật, mong rằng đại chúng có thể nhờ vào quyển sách này sinh khởi niệm Phật tín tâm, đột phá tu học chướng ngại, ắt sẽ được gặp lại nhau sau khi vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới ngay trong đời này!

1. Giác ngộ nhân sinh

* Ở cái thế gian này, cho dù có đem toàn bộ thế giới cho chúng ta, chúng ta lại có thể đạt được gì? Một hơi thở ra không hít trở lại, cùng một dạng cũng là đem không đi được. Thật sự là "Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân" (muôn thứ không mang được, chỉ có nghiệp theo mình), không có bất kỳ một vật gì chúng ta có thể mang đi được.

* Thế gian này không có thứ gì là chính mình, chúng ta xem cái này là chính mình, cái kia cũng là chính chúng ta, trên sự thực đều là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tất cả đều là giả. Thân còn không phải mình huống gì vật ngoài thân! Cho nên phải buông xuống, phải đem vọng tưởng, chấp trước xả bỏ. Vô thủy kiếp đến nay sinh tử căn bản là buông không xuống. Vì vậy tự mình nhất định phải giác ngộ, phải chân chính chịu buông xuống.

* Tục ngữ nói: "Sinh không mang đến, chết không mang đi". Đừng nghĩ rằng "Tôi còn chưa chết", kỳ thực chúng ta có thể bảo đảm được rằng mình vẫn có thể sống đến ngày mai sao? Không một ai dám nói bảo đảm được ta ngày mai vẫn tồn tại, bởi vì “Hoàng tuyền lộ thượng vô lão thiếu” (Đường đến suối vàng không phân biệt già hay trẻ)! Minh bạch chân tướng sự thật này, chúng ta liền phải nắm chắc mỗi một phút mệnh quang, phải nghiêm túc cố gắng đi học tập, đi tu hành.

* "Sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc", nếu như đối với hai câu này nhận thức rõ ràng, chúng ta liền giác ngộ. Biết sinh tử là chuyện lớn, sẽ đề khởi tâm cảnh giác. Biết vô thường tấn tốc, chúng ta liền biết quý trọng thời gian. Người tu hành quý báu nhất chính là quang âm, còn lại danh văn lợi dưỡng, tài sắc danh thực thùy, những vật này hết thảy buông xuống, chính là muốn nắm chắc quang âm tốt đẹp, đây gọi là chân chính giác ngộ.

* Kinh Kim Cang nói: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng", "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh", chúng ta phải thường thường đề khởi công phu quán chiếu, chúng ta đối với hết thảy sự, hết thảy vật tự nhiên là xem nhạt. Xem nhạt, đương nhiên chúng ta liền có thể buông xuống, có thể buông xuống, tâm địa tự nhiên thanh lương tự tại, phiền não liền ít đi. Phiền não ít, trí tuệ liền tăng trưởng, đây là đạo lý nhất định.

* Vĩnh Gia đại sư nói thật hay: “Mộng lý minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (trong mộng rõ ràng có sáu nẻo, giác rồi đại thiên cũng không còn), đại thiên là ba ngàn đại thiên thế giới, là lục đạo luân hồi. Chỉ cần giác ngộ liền không có, mê chấp nó liền có, mê rồi mới chấp trước, giác liền không chấp trước, giác liền triệt để buông xuống, không buông xuống được chính là mê, không có giác ngộ. Như vậy vì sao không buông xuống?

* Lo lắng, dính mắc, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta nhất định phải chân chính buông xuống, nhưng nói dễ, làm rất khó, nhất định phải chân chính giác ngộ mới chịu làm như vậy. Giác ngộ cái gì? Sinh tử luân hồi đáng sợ. Chúng ta nếu không buông xuống, liền vĩnh viễn sinh tử luân hồi. Sinh tử luân hồi, nhất định là đời sau không bằng đời này, chúng ta đời này tại nhân đạo trong lục đạo, đời sau đi nơi nào? Nhất định đọa tam ác đạo.

* Cổ nhân giảng: "Nhân mạng vô thường, thạch hỏa điện quang" (Mạng người vô thường như lửa xẹt từ đá, như ánh sáng từ tia chớp). Nhân mạng giống cái gì? Giống như tia chớp vậy, một sát na. Có thể giác ngộ, thừa dịp hiện tại thân thể còn khỏe mạnh, còn chưa già, còn không có bệnh, có thể buông xuống liền tận hết khả năng buông xuống, đem toàn bộ thời gian, tinh thần xử lý đại sự của mình, cái đại sự này chính là lão thật niệm Phật.

* Mỗi người cần phải chân chính giác ngộ, giác ngộ cái gì? Sinh tử là chuyện lớn, luân hồi đáng sợ, là thật sự kinh khủng, cho nên chúng ta phải có cái loại tâm cảnh giác này. Chúng ta cả đời này cái gì cũng đều không cầu, chỉ cầu liễu sinh tử, vượt thoát luân hồi. Dùng phương pháp gì mới có thể làm được? Chỉ có niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.

* Thiện Đạo đại sư làm bài kệ Tịnh Độ, trong đó viết:
Tiệm tiệm kê bì hạc phát
Khan khan hành bộ long chung

(Da mồi tóc bạc lần lần
Lụm cụm bước run mấy chốc)
...
Duy hữu kính lộ tu hành
Ðản niệm A Di Ðà Phật
(Duy có đường tắt tu hành
Chỉ niệm "A Di Đà Phật")

Là ý nói, con người chúng ta chung quy dần dần già yếu, làn da nhăn nheo, tóc bạc, lưng gù, đi lại từng bước chậm chạp, lụm cụm, lúc này liền phải nghĩ đến ngày tháng không còn nhiều. Cho dù hưởng thụ muôn vàn khoái lạc, sinh tử vô thường cuối cùng sẽ tới. Lúc này cần phải giác ngộ, chúng ta phải tu hành, bởi vì thời gian của chính mình đã không còn kịp rồi, cho nên phải tìm một con đường gần, một con đường đơn giản ổn định, đó chính là một lòng xưng niệm A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra, hết thảy đều buông xuống. Đây là vị tổ sư thứ hai của Tịnh Độ tông khuyến khích người thế gian.

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

Ấn Quang Đại Sư Pháp Ngữ Tinh Hoa


ẤN QUANG ĐẠI SƯ PHÁP NGỮ TINH HOA
(Tịnh Không Pháp Sư tuyển chọn)
Nguồn: http://www.amtb.tw/pdf/yg01.pdf

* Thế gian biến loạn do đâu? Nói gọn một lời: Do tâm tham - sân - si của chúng sanh tạo nên mà thôi. Tâm tham thuận theo sự hưởng thụ vật chất càng tăng trưởng mãnh liệt, hễ có chút gì chẳng toại ý liền ganh đua ngay. Nếu vẫn chẳng toại ý liền có công kích, chiếm đoạt, đấu đá khiến cho tử vong, tai nạn đi theo. [Bởi đó] dịch lệ đói kém theo đó [xảy ra], hết thảy tai họa theo đó [phát khởi]. Lửa sân hừng hực, cả thế giới cháy sạch thành tro.

* Chỉ mình đức Như Lai ta xiển dương sự thật Khổ, Không để trị lòng tham của chúng sanh, hoằng dương tông chỉ từ bi để trị lòng sân của chúng sanh.

* Ngài lại dạy pháp môn Tịnh Ðộ để chỉ dạy chúng sanh con đường lìa khổ hưởng vui, phương tiện vượt ngang ra khỏi tam giới.

* Là Phật tử, tin vào thể tánh bình đẳng của pháp giới, hiểu rõ tướng trạng nhân - quả, khổ - vui, biết công dụng tự - tha (ta - người), cảm - ứng, khởi vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, ngày nào nỗi khổ của chúng sanh chưa trừ thì ngày đó trách nhiệm của kẻ thất phu chưa tận, nên trong ngày ấy, các sự nghiệp thỉnh pháp, tùy học, sám hối, cúng dường chưa thể ngưng nghỉ được.

* Cần biết nhân quả không hư dối, họa phước đều là tự mình gây nên. Nghèo, bệnh, chết yểu, lao ngục, đều do biệt nghiệp. Thủy, hạn, đao binh lại do cộng nghiệp. Nghiệp chín muồi thì họa đến, không thể may mắn tránh khỏi.

* Muốn cầu được phước tránh họa ắt trước tiên phải nỗ lực đoạn ác tu thiện. Tùy thời, tùy chỗ tự mình cố gắng làm, lại khuyên bảo mọi người làm theo. Kiêng giết, ăn chay, sùng Phật, tiếc phước (quý trọng đồ vật, sử dụng tiết kiệm, tự hưởng thụ thì ít mà giúp cho người khác thì nhiều), hoằng pháp lợi sinh, thường niệm thánh hiệu Quán Âm vì chúng sinh hồi hướng tiêu tai giải kiếp, [được như vậy] thì người và mình cùng được lợi, tạo đức vô cùng, thu được phước cũng rộng lớn vậy.

* Mục đích của pháp hội lần này là hộ quốc tức tai, nhưng làm sao mới đạt được mục đích ấy? Tôi cho rằng phương pháp căn bản là Niệm Phật vì sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu ai nấy đều niệm Phật thì sẽ xoay chuyển được nghiệp này. Nếu chỉ có một ít người niệm Phật thì [nghiệp ấy] cũng có thể giảm nhẹ.

* Pháp môn Niệm Phật tuy là vì cầu sanh Tịnh Ðộ, liễu thoát sanh tử mà lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp chướng của nó quả thật cũng cực kỳ lớn lao.

* Người chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ngăn dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Cần nhất là phải hiểu rõ nhân quả, tự hành, dạy người [hành].

* Trong thế gian, người tốt hoàn toàn chẳng biến đổi rất ít, kẻ xấu hoàn toàn chẳng biến đổi cũng rất ít; đa số là kẻ lúc thượng, lúc hạ, khi tốt, khi xấu, cho nên giáo hóa là điều khẩn yếu nhất vậy.

* Chỉ cần ra sức giáo hóa thì sẽ có thể khiến cho con người đổi ác theo lành, buông dao đồ tể, ngay lập tức thành Phật chẳng sót một ai! Chỉ là do nơi con người tin tưởng, nghĩ nhớ, tận lực mà hành đấy thôi.

* Người niệm Phật cần phải chú ý giáo dục con cái mình trở thành người tốt, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Nếu ai cũng làm được như thế thì tai nạn tự tiêu, đất nước cũng tự được gìn giữ, bảo vệ!

* Chân lý mầu nhiệm căn bản của pháp môn Niệm Phật nằm trong ba kinh Tịnh Ðộ, nhưng theo như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt quy hướng Cực Lạc. Thật là pháp môn Tổng Trì trên thành Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sanh, thành thỉ, thành chung của mười phương tam thế hết thảy chư Phật. Vì thế, [pháp môn này] được chín giới cùng hướng về, mười phương chung tán thán, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết.

* Ăn chay sẽ vun bồi tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi cơ duyên giết hại.

* Người tu Tịnh Ðộ đã sanh về Tây Phương liền liễu sanh tử thì cũng là “tức thân thành Phật”.

* Ai nấy giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt thì tự nhiên quốc gia được bảo vệ, tai ương tự tiêu vậy.

Thứ Ba, 14 tháng 11, 2017

Thường Lễ Cử Yếu (Lễ Phép Hàng Ngày)


TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 7

THƯỜNG LỄ CỬ YẾU
(Lễ Phép Hàng Ngày)
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam biên soạn

I. Ở NHÀ
1. Phận làm con phải dậy sớm, áo quần mền gối nên tự mình phải
xếp lại gọn gàn, sớm tối tất định phải biết cần kiệm.
2. Phận làm con, khi muốn ngồi thì chẳng được ngồi ghế chính giữa,
lúc đi chẳng được đi chen ở chính giữa những người lớn.
3. Phận làm con, lúc đi ra cần thưa bẩm, lúc trở về cần trình thưa.
4. Người lớn trao cho vật gì, cần phải dùng hai tay để tiếp lấy.
5. Đi chung với người lớn nên đi chậm rãi phía sau, chẳng được
dành đi gấp gáp ở trước người lớn.
6. Khi người lớn đứng mà mình nhỏ thì chẳng được ngồi. Đang ngồi
thấy người lớn đến thì phải đứng dậy.
7. Chẳng được ở trước mặt người lớn đang ngồi mà đi đủng đỉnh
qua lại.
8. Phàm khi đứng thì chẳng được đứng ở ngay giữa cửa, khi bước
qua cửa thì chẳng được đạp chân lên ngạch cửa.
9. Lúc đứng thì chẳng nên đứng thọt một chân, khi ngồi chẳng được
ngồi nghiêng ngữa duỗi chân như cái xẩy. Lúc nằm ngủ chẳng
nên nằm ngữa hay nằm sấp, mà nên nằm nghiêng hông bên phải,
mà nên nằm cong người lại như cây cung.
10. Ngồi ăn chung bàn chẳng được sắp đặt thức ăn ngon để dành
riêng ăn một mình.
11. Chẳng được bươi móc lựa chọn đồ ăn ngon dỡ.
12. Trong lúc ăn chẳng nên than thở, chẳng nên răn dạy trách mắng
con em ngay ở trên bàn cơm.

II. Ở TRƯỜNG
1. Lúc kéo cờ, hạ cờ cùng xướng ca bài quốc kỳ, hiệu ca, nên đứng
nghiêm trang để biểu tỏ sự cung kính.
2. Lúc thầy cô giáo lên lớp và xuống lớp, cần phải đứng lên để cung
đón và tiễn đưa.
3. Khi hướng về thầy cô giáo có việc muốn thưa hỏi thì cần phải
đứng dậy.
4. Lúc đi đường gặp thầy cô giáo, nên dừng lại bên đường đứng
nghiêm trang để bày tỏ sự cung kính.
5. Lúc nghe giảng, nên ngồi ngay hoặc đứng thẳng, chẳng được ngồi
chống cằm, ngoẹo cổ, cong lưng, hay vểnh chân lên.
6. Lúc kiểm tra thi cử, chẳng được giao đầu kề tai, hoặc dòm trái ngó
phải.
7. Yên phận mà học tập nhưng nên gần gũi với thầy cô giáo. Vui
chung với bạn nhưng phải đặt lòng tin nơi đạo.

III. XỬ THẾ
1. Chẳng nên vạch bày chỉ thẳng ra cái yếu kém của người. Chẳng
được phô bày cái hay tốt của mình.
2. Những chuyện ở trong gia đình mình, không thể đem đi nói cho
người ngoài biết.
3. Miệng là cửa của họa phước, phàm có lời muốn nói, cần phải có sự
suy gẫm đắn đo trước rồi mới nói.
4. Khi thấy người thất ý, chớ nên nói những việc đắc ý của mình.
Gặp người lớn tuổi, chớ nên nói lời bi ai chết chóc.
5. Đối với người sơ giao mới quen, không thể thổ lộ cho họ những
lời sâu kín. Sau khi tuyệt giao rồi cũng chẳng nên đối kia nói
những lời khó nghe.
6. Chẳng nên làm nhục người, chẳng nên lấy người ra làm trò đùa để
mua vui.
7. Khi đứng trước người tàn tật, càng nên đặc biệt biểu tỏ sự cung
kính.
8. Đối với những người sống bằng sức lao động khổ nhọc như gồng
gánh, bán hàng rong, chớ nên lấn ép tiện nghi của họ.
9. Thi ân cho người thì nên quên bỏ, thọ nhận ân của người cần phải
báo đáp. Lỡ đắc tội với người thì nên đến xin hòa giải. Người lỡ
đắc tội với mình thì nên khoan thứ.
10. Đối với người lành thì nên tự thân đến để gần gũi, phải có lòng
kính tin lâu dài. Đối với hạng người xấu ác thì tự mình cũng nên
cung kính nhưng cần phải lánh xa.
11. Gặp bất cứ chuyện gì cũng đều phải giữ sự trầm tĩnh, đối với
những việc tự mình không thể làm được thì chớ nên vọng dối
rằng mình có thể.
12. Đi qua vườn dưa chớ nên ngồi xuống cột giầy, đứng dưới cây
mận thì chớ nên đưa tay chỉnh sửa nón mũ.
13. Phàm sử xự việc gì cũng phải hợp với lý trí, không thể nghiêng
nặng cảm tình.
14. Cái mình không muốn, chớ đem cho người khác.
15. Phàm cần cầu người khác dạy bảo việc gì, tất cần phải đến bên
cửa để thưa hỏi.

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Bách Quá Cách


TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 6

BÁCH QUÁ CÁCH
(Bảng ghi 100 điều lỗi, dùng để tự xét lỗi hàng ngày)

1. Sinh hoạt hàng ngày không bình thường.
2. Trang phục, nghi dung không chỉnh tề, sạch sẽ.
3. Tùy tiện khạc nhổ, vứt rác bừa bãi, vừa đi vừa ăn.
4. Thấy rác vứt bừa trên đất mà chưa thể tiện tay nhặt lên.
5. Bản thân hoặc nhà ở bẩn thỉu, lộn xộn, chưa thay đổi thói quen không sạch sẽ.
6. Còn có thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu, nhai trầu ...
7. Không tuân thủ trật tự công cộng, lái xe không tuân thủ luật giao thông.
8. Ra vào những nơi không đứng đắn.
9. Công tác không tận hết bổn phận, không có lòng kính trọng nghề nghiệp.
10. Sinh hoạt không có tinh thần phấn chấn, công việc hoặc tu học hiệu suất kém.
11. Không hòa thuận với người, không có tinh thần đoàn đội.
12. Khi gặp mặt hàng xóm, đồng nghiệp hoặc người quen biết chưa thể mỉm cười chào hỏi.
13. Chưa thể thuận hảo với người thân, hoà hợp với láng giềng, trông coi giúp đỡ lẫn nhau.
14. Gặp người tàn tật, người già, trẻ em chưa thể giúp đỡ.
15. Bình thường thích xem TV, báo chí, tạp chí ...
16. Xem phim, ảnh, sách báo... có nội dung sắc tình, thân tâm phạm tà dâm.
17. Nam nữ qua lại không bình thường.
18. Ngày hôm qua mắc lỗi mà hôm nay chưa sửa, tái phạm tập khí xấu.
19. Giết hại hoặc tổn thương chúng sinh hữu tình.
20. Tham cầu hưởng thụ ăn, mặc, ở, đi lại.
21. Trộm cắp hoặc lấy đi bất kỳ vật gì của người khác mà chưa được đồng ý.
22. Lục trai, thập trai, ngày đản sinh của Phật, Bồ Tát mà chưa thể ăn chay, đoạn dâm.
23. Bữa sáng bình thường chưa thể ăn chay.
24. Lãng phí ngũ cốc hoặc đồ ăn.
25. Không tiếc phước, sinh hoạt xa xỉ, lãng phí.
26. Gặp hình tượng Phật, Bồ Tát hoặc tăng chúng mà chưa khởi tâm thành kính hỏi thăm hoặc đảnh lễ.
27. Đối với cha mẹ không hiếu thuận (để cha mẹ lo lắng hoặc nổi giận)
28. Đối với sư trưởng không cung kính, đối với anh em, bạn bè không trung tín.
29. Đối với người nhà hoặc giữa vợ chồng với nhau còn có chỗ chưa hòa mục.
30. Đối với người không chân thành, thái độ cống cao ngã mạn.
31. Đối nhân xử thế không thành tín hoặc không giữ lới hứa với người.
32. Đối nhân xử thế còn thích chiếm lợi của người khác.
33. Đối nhân xử thế còn sợ người khác chiếm lợi của mình hoặc còn so đo tính toán thiệt hơn.
34. Đối nhân xử thế, học Phật tu hành còn có tâm hạnh phan duyên.
35. Đối nhân xử thế còn có tâm nghi kỵ, hoài nghi, tật đố.
36. Công khóa sáng tối chưa thể đúng thời hoàn thành viên mãn.
37. Niệm Phật chín lần trong ngày (Thập Niệm Pháp) chưa thực hiện được.
38. Bình thời chưa thể nắm lấy thời gian tu học, để thời giờ luống qua vô ích.
39. Tu học Phật pháp tâm bất chuyên, niệm bất nhất.
40. Học Phật tu hành giải đãi không bền chí, hoặc khởi tâm thoái lui, e sợ.
41. Gặp duyên đáng nên làm mà chưa làm, đáng nên xả mà chưa xả.
42. Giúp đỡ người khác không có tinh thần dũng cảm tiến tới.
43. Giúp người làm chuyện sai trái; thấy người lo lắng kinh sợ mà không an ủi.
44. Chúng sinh cùng chánh pháp hữu duyên mà chưa tích cực dẫn đạo.
45. Làm kinh doanh dùng thủ đoạn, phương pháp không chính đáng để mưu cầu lợi ích.
46. Có hành vi cùng tâm thái không làm mà hưởng như đầu cơ, đánh bạc, làm việc phi pháp, không làm ăn chân chính ...
47. Ngôn ngữ, động tác không đoan chính, thô tục bất nhã.
48. Miệng nói lời thô bạo, xấu xa, ô uế.
49. Miệng nói lời lỗ mãng, thái độ nói chuyện không ổn trọng.
50. Dùng lời hư giả không thật lừa gạt người khác.

Chủ Nhật, 12 tháng 11, 2017

Luật Yếu Tiết Lục - Quyển Hạ

TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 5

LUẬT YẾU TIẾT LỤC
Quyển Hạ

Trong tâm chứa đức sư tử,
Ngoài thân hiện oai tượng vương.

1) Kinh Hoa Nghiêm nói: giữ gìn trọn đủ phép dạy oai nghi, hay khiến ngôi Tam-bảo chẳng đoạn, phải vậy.

2) Đời mạt-pháp tình người hay sanh tâm biếng nhác, cho nên nghe nhiều thời sanh tâm chán nản, vì thế nên bớt bỏ văn nhiều mà dùng câu tóm gọn cho dễ người học và đọc.

3) Tạp A-hàm kinh nói: “Phật bảo các tỳ-kheo, nên giữ lòng cung kính, thường nhiếp buộc tâm, thường thận trọng kinh sợ. nếu không cung kính, chẳng nhiếp buộc tâm, chẳng thận trọng lo sợ, mà muốn làm cho oai nghi được đầy đủ quyết không thể được. Không đủ oai nghi, muốn cho học pháp được viên mãn quyết không thể được. Học pháp chẳng viên mãn mà muốn khiến cho ngũ phần pháp thân được đầy đủ quyết không thể được. ngũ phần pháp thân chẳng đầy đủ mà muốn đạt đến vô dư Niết-bàn quyết không thể được.

4) Trong Đại Luật dạy: phàm người xuất gia, chỗ có nói năng đều phải nói lời có lợi ích, chẳng nên riêng giận và bàn luận việc người. Trong Luận nói: bằng đến nhà thế gian, nói tội lỗi của tỳ-kheo thời người thế gian kia, đối trong phật-pháp, đã không tâm tín kính lại còn gây tội hủy báng thêm gốc khổ cho họ. Nếu ta nói tội lỗi thật ra lại là làm hư mất pháp thân của ta vậy.

5) Luật dạy: “đệ tử gặp hòa-thượng nên đầy đủ bốn tâm: (1) thân ái ; (2) kính thuận ; (3) úy nan (sợ khó) ; (4) tôn trọng. Phải khéo phụng dưỡng và tiếp nhận sự truyền thừa khiến cho chánh pháp được cửu trụ, lợi ích càng được tăng trưởng rộng lớn.

6) Thiên Thành Phạm nói: sa-di ở với Thầy thường có tâm kỉnh sợ, thuận theo ý thầy, thường biết xấu hổ lo đền 4 ân, cứu giúp 3 cõi.

7) Thầy là người làm khuôn mẫu dạy chúng sanh trong 3 cõi, thế Phật diễn nói chánh pháp, sanh giới thân cho ta, nuôi huệ mạng cho ta, nên ta phải kính trọng coi cũng như Phật.

8) Thầy tọa thiền chẳng lên làm lễ, thầy kinh hành chẳng nên làm lễ, thầy ăn cơm, thầy thuyết kinh, thầy đánh răng, thầy tắm rửa, thầy ngủ nghỉ, v.v… đều không nên làm lễ. Thầy đóng cửa chẳng nên làm lễ ngoài cửa. Muốn vào cửa lễ lạy, nên khảy móng tay ba lần (gõ nhẹ lên cửa 3 lần khiến cho thầy biết). Thầy không ưng thuận thì nên đi.

9) Hầu thầy chẳng được đứng trước mặt, chẳng được đứng chỗ cao, chẳng đặng quá xa, phải đứng sao để thầy nói nhỏ mình nghe được khỏi phí sức thầy.

10) Bằng thưa hỏi câu chuyện Phật pháp, nên y áo chỉnh tề lễ bái, quỳ gối chắp tay mà thưa hỏi. Thầy có lời dạy bảo thì phải lắng lòng nghe kỹ, in sâu vào óc.

Luật Yếu Tiết Lục - Quyển Thượng

TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 5

LUẬT YẾU TIẾT LỤC
Quyển Thượng

Khí thanh cao như sao sáng trời,
Oai nghiêm tịnh dường gió tan mây

1) Phàm phu từ vô thủy kiếp đến nay, bị màn vô minh che lấp chơn tánh, nên khởi các vọng tưởng, vin theo ngoại cảnh lục trần, lung tình nhiễm theo năm món dục ở thế gian. Đem thân khẩu ý tạo nhiều lỗi lầm, đọa lạc vào ba đường ác, luân hồi trong sáu nẻo, không mong có ngày được ra khỏi.

2) Sa-di lúc mới phát tâm xuất gia, vâng giữ 10 giới, siêng năng sách tấn tu hành, đoạn trừ phiền não hoặc-tập để mà cầu chứng được Niết-bàn diệu quả.

3) Giới là răn cấm, Luật là phép tắc. Phòng ngừa điều quấy, ngăn dứt điều ác nên nói là giới. Xử đoán nặng nhẹ, lúc nào nên khai duyên hay cấm chỉ mà khéo giữ cho đúng là trì hay phạm nên nói là luật.

4) 10 giới xác thật là thềm thang để vượt xuất thế gian, là cánh cửa đi vào Niết-bàn vậy.

5) Do bệnh của chúng sanh chẳng phải một, nên phương thuốc được chia ra thành nhiều toa.

6) Luật chế tỳ-kheo, năm hạ về trước ròng chuyên rành về giới luật. Cần phải hiểu rỏ thế nào là trì, phạm, biện rỏ việc của tỳ-kheo rồi thì về sau mới được phép học tập kinh luận. Người thời nay học hỏi bỏ qua thứ lớp, nên chỗ hành trì đã mất đi thứ tự thì không do đâu mà được nhập đạo.

7) Khinh giới chính là toàn tự khinh mình; hủy bỏ luật lại trở thành chính tự hủy mình vậy. Ôi! tình vọng dễ quen huân tập, cái tột cùng của đạo khó nghe, những bực tột chứng siêu quần trong vạn người khó có một.

8) Kẻ ngu không có con mắt huệ, chẳng biết rõ phải quấy, cuồng vọng tà kiến cố chấp, chẳng biết tuân theo thứ lớp mà học.

9) Phật tạng kinh nói: “trước chẳng chịu học tiểu thừa, sau rồi mới học đại thừa, như vậy chẳng phải là đệ tử Phật.”

10) Giới chính là phao nổi để vượt qua biển khổ, là chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân, cho nên cần phải cẩn thận, chớ để có chổ tơ hào khuyết phạm.

Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh (trích lục 39 điều)

TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 3

PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO KINH

1. Dĩ chủng chủng nhu nhuyễn ngôn từ, vị thuyết pháp yếu, linh kỳ hoan hỷ.
(Dùng các lời lẽ mềm mỏng nói pháp yếu khiến họ hoan hỷ)

2. Kiến tại gia, xuất gia Bồ Tát thừa nhân, thường sanh tín kính, khởi giáo sư tưởng.
(Thấy người thuộc Bồ Tát thừa dù là tại gia, hay là xuất gia, thường sanh lòng tin kính, tưởng như thầy dạy)

3. Bất cầu tha quá thất
(Chớ tìm cầu lỗi người)

4. Bất cử nhân tội
(Đừng cử tội người)

5. Ly thô ngữ, xan lận
(Lìa lời thô, keo bẩn)

6. Đương xả ư giải đãi
(Hãy bỏ rời giải đãi)

7. Viễn ly chư hội náo
(Xa lìa các ồn náo)

8. Tịch tĩnh, thường tri túc
(Tịch tĩnh, thường biết đủ)

9. Bất trước danh văn, lợi dưỡng, quả báo.
(Chẳng chấp vào danh tiếng, lợi dưỡng, quả báo)

10. Thường vị chúng sanh, quảng tuyên chánh pháp.
(Thường vì chúng sanh rộng nói chánh pháp)

11. Trụ thanh tịnh hạnh, sanh giác ngộ tâm.
(Trụ hạnh thanh tịnh, sanh tâm giác ngộ)

12. Dĩ thiểu công dụng, thiện năng lợi ích vô lượng chúng sanh.
(Dùng ít công sức mà khéo có thể lợi ích vô lượng chúng sanh)

13. Phát khởi tinh tấn, phổ hộ chánh pháp.
(Phát khởi tinh tấn, hộ trì hết thảy chánh pháp)

14. Nhất thiết hạnh trung, tùy thuận nhi trụ.
(Tùy thuận trụ trong hết thảy các hạnh)

15. Hộ trì chánh pháp, bất tích thân mạng.
(Hộ trì chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng)

16. Thường cần tinh tấn, bất cầu lợi dưỡng.
(Thường siêng tinh tấn, chẳng cầu lợi dưỡng)

17. Ư tứ chúng trung, tuyên thuyết chánh pháp.
(Ở trong tứ chúng, tuyên nói chánh pháp)

18. Thiện nhập nhất thiết chúng sanh tâm hạnh.
(Khéo vào trong tâm hạnh của hết thảy chúng sanh)

19. Tâm ý điều nhu, thường hoài từ mẫn.
(Tâm ý nhu hòa, thường ôm lòng từ mẫn)

20. Ư nhất thiết pháp, phát sanh thắng nhẫn, vô chấp trước tâm.
(Đối với hết thảy pháp, phát sanh tâm nhẫn thù thắng, không tâm chấp trước)

21. Bất tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tịnh ý lạc tâm.
(Chẳng tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tâm giữ ý lạc thanh tịnh)

22. Cầu Phật chủng trí, ư nhất thiết thời, vô vong thất tâm.
(Cầu Phật chủng trí, trong hết thảy thời, tâm chẳng quên mất)

23. Ư chư chúng sanh, tôn trọng, cung kính, vô hạ liệt tâm.
(Đối với các chúng sanh tôn trọng, cung kính, không tâm hèn kém)

24. Bất trước thế luận, ư Bồ Đề phần, sanh quyết định tâm.
(Chẳng dính mắc thế luận, sanh tâm quyết định nơi Bồ Đề phần)

25. Chủng chư thiện căn, vô hữu tạp nhiễm, thanh tịnh chi tâm.
(Trồng các căn lành, tâm thanh tịnh chẳng có tạp nhiễm)

26. Thanh tịnh thù thắng nghiệp, ái nhạo thường tu tập.
(Nghiệp thanh tịnh thù thắng, yêu thích thường tu tập)

27. Đương xả hạ liệt nghiệp, ưng cầu thắng thượng pháp.
(Nên bỏ nghiệp hèn kém, nên cầu pháp thắng thượng)

28. Độc tụng, tu hành, vị nhân diễn thuyết.
(Đọc tụng, tu hành, vì người khác diễn nói)

29. Ư nhất cần tu thiền định Bồ Tát, diệc đương thân cận, cúng dường, thừa sự.
(Với một Bồ Tát tu thiền định, cũng phải nên thân cận, cúng dường, thừa sự)

30. Ư trí huệ trung, đương cần tu tập.
(Hãy nên siêng tu tập nơi trí huệ)

31. Hý luận, tránh luận xứ, đa khởi chư phiền não, trí giả ưng viễn ly.
(Chỗ hý luận, tranh luận, khởi nhiều các phiền não, người trí nên xa lìa)

32. Vị cầu vô thượng đạo, văn pháp vô yểm túc.
(Để cầu đạo vô thượng, nghe pháp không chán đủ)

33. Thường xả nhất thiết, phi pháp chi hý luận.
(Thường bỏ hết thảy, những hý luận phi pháp)

34. Bất ưng kiến nhân quá, tự vị tối tôn thắng.
(Chẳng nên thấy lỗi người, tự bảo tôn thắng nhất)

35. Kiêu tứ, phóng dật bổn. Mạc khinh hạ liệt nhân.
(Kiêu tứ: gốc phóng dật. Chớ khinh kẻ kém hèn)

36. Giác ngộ sanh tàm quý, an trụ tinh tấn lực.

(Giác ngộ sanh hổ thẹn, an trụ sức tinh tấn)

37. Ư chư chúng sanh, khởi ư đại từ, vô tổn hại tâm.
(Đối với các chúng sanh, khởi tâm đại từ, không tổn hại)

38. Sở hành tội nghiệp tàm quý phát lộ.
(Tội nghiệp trót làm hổ thẹn bày tỏ)

39. Cần tu nhẫn nhục hạnh, đương trụ ư nhẫn nhục.
(Siêng tu hạnh nhẫn nhục, nên trụ trong nhẫn nhục)

(Ghi chú: Nguyên bản có 45 câu, nhưng vì một số câu không có trong kinh hoặc bị trùng lặp nên ở đây lược bớt)

>> Xem tiếp phần 4: Tịnh Nghiệp Học Nhân Tu Hành Ngũ Đại Khoa Mục
<< Xem phần trước: Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh (trích lục 62 điều)

Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh (trích lục 62 điều)


TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 2

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ KINH

1. Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo.
(Tâm thường trụ chắc nơi đạo độ thế)

2. Vi chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu.
(Vì các thứ loại, làm bạn không thỉnh)

3. Vu chư chúng sinh, thị nhược tự kỷ.
(Với các chúng sinh, xem như chính mình)

4. Bất kế chúng khổ.
(Không nề các khổ)

5. Thiểu dục tri túc.
(Ít muốn biết đủ)

6. Ư chư hữu tình, thường hoài từ nhẫn.
(Với các hữu tình thường mang lòng từ nhẫn)

7. Hòa nhan ái ngữ, khuyến dụ sách tấn.
(Vẻ mặt nhu hòa, lời nói dịu dàng, khuyến dụ sách tấn)

8. Cung kính tam bảo.

9. Phụng sự sư trưởng.

10. Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá.
(Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người)

11. Thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi.
(Khéo giữ thân nghiệp, không mất oai nghi)

12. Thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm.
(Khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm)

13. Quán pháp như hóa, tam muội thường tịch.
(Quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch)

14. Phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, A Di Đà Phật.

15. Phụng trì trai giới.

16. Hữu không nhàn thời, đoan chánh thân tâm, tuyệt dục khử ưu, từ tâm tinh tấn.
(Hễ có lúc rảnh rỗi liền đoan chánh thân tâm, tuyệt dục, bỏ lo lắng, từ tâm tinh tấn)

17. Bất đương sân nộ tật đố.
(Không nên hờn giận, ganh ghét)

18. Yếu đương hiếu thuận, chí thành trung tín.
(Phải nên hiếu thuận, chí thành, trung tín)

19. Đương tín tác thiện đắc phước.
(Nên tin làm lành được phước)

20. Bất đắc tham thiết xan tích.
(Không nên tham tiếc, keo kiệt)

21. Bất sát sinh.
22. Bất thâu đạo.
23. Bất dâm dục.
24. Bất vọng ngôn.
25. Bất ỷ ngữ.
26. Bất ác khẩu.
27. Bất lưỡng thiệt.
28. Bất tham.
29. Bất sân.
30. Bất si.
(Không giết hại sinh vật, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không thêu dệt, không nói lời hung dữ, không nói đâm thọc, không tham lam, không giận hờn, không si mê)

31. Kiểm liễm đoan trực, thân tâm khiết tịnh.
(Kiềm chế, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực, thân tâm khiết tịnh)

32. Phụ tử huynh đệ phu phụ thân thuộc, đương tương kính ái.
(Cha con anh em, vợ chồng thân thuộc nên thương kính nhau)

33. Ngôn sắc thường hòa, mạc tương vi lệ.
(Nói năng hòa nhã, đừng chống đối nhau)

34. Trạch kỳ thiện giả, cần nhi hành chi.
(Chọn lựa điều thiện để siêng năng thực hành)

35. Đương cần tinh tấn.
(Phải nên siêng năng tinh tấn)

36. Vật đắc tùy tâm sở dục, khuy phụ kinh giới.
(Đừng theo tâm tham dục, cô phụ kinh giới)

37. Hà bất ư cường kiện thời, nỗ lực tu thiện, dục hà đãi hồ.
(Lúc còn cường tráng sao không nỗ lực tu thiện, đợi đến lúc nào?)

38. Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện.
(Kính Phật là điều đại thiện)

39. Thực đương niệm phật, tiệt đoạn hồ nghi.
(Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi)

40. Khai thị chánh đạo, độ vị độ giả.
(Khai thị chánh đạo, độ người chưa độ)

41. Tẩy trừ tâm cấu.
(Rửa trừ cấu nhơ trong tâm)

42. Ngôn hạnh trung tín, biểu lý tương ứng.
(Nói năng hành động thành tín, trong ngoài hợp nhất)

43. Thụ Phật minh hối, chuyên tinh tu học, như giáo phụng hành, bất cảm hữu nghi.
(Vâng lời Phật dạy chuyên cần tu học, y giáo phụng hành, không dám có lòng nghi ngờ)

44. Đoan tâm chánh ý, bất vi chúng ác.
(Tâm ý chánh trực, không làm điều ác)

45. Đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương phó, sở tác chí thành.
(Đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương xứng, việc làm chí thành)

46. Độc tác chư thiện, bất vi chúng ác.
(chỉ làm các điều thiện, không làm các điều ác)

47. Tôn thánh kính thiện.

48. Nhân từ bác ái.

49. Thân tâm khiết tịnh, dữ thiện tương ứng.
(Thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng)

50. Vật tùy thị dục, bất phạm chư ác.
(Đừng theo thị dục, không phạm điều ác)

51. Ngôn sắc đương hòa, thân hành đương chuyên, động tác chiêm thị, an định từ vi.
(Ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh từ tốn)

52. Từ tâm chuyên nhất, trai giới thanh tịnh.

53. Tự tương ước kiểm, hòa thuận nghĩa lý, hoan nhạc từ hiếu.
(Cùng nhau kiểm điểm, hòa thuận đạo nghĩa, hoan hỷ từ hiếu)

54. Sở tác như phạm, tắc tự hối quá.
(Nếu có sai phạm phải tự hối cải)

55. Khứ ác tựu thiện, triêu văn tịch cải.
(Bỏ ác làm lành, sáng nghe tối sửa)

56. Cải vãng tu lai, tẩy tâm dịch hạnh.
(Sửa xưa tu nay, gột rửa thân tâm)

57. Tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao.
(Tâm không tự ti, cũng không cống cao)

58. Vị cầu pháp cố, bất sinh thoái khuất siểm ngụy chi tâm.
(Vì để cầu pháp này thì chớ nên sanh lòng thoái chuyển, cong vạy, siểm ngụy)

59. Đương hiếu ư Phật.
(Nên hiếu với Phật)

60. Thường niệm sư ân.
(Thường nghĩ đến ơn thầy)

61. Chủng tu phước thiện, cầu sinh tịnh sát.
(Vun bồi phước thiện, cầu sanh cõi tịnh)

62. Tích công lũy đức.
(Tích lũy công đức)

>> Xem tiếp phần 3: Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh (trích lục 39 điều)
<< Xem phần trước: Tịnh Tông Đồng Học Tu Hành Thủ Tắc

Tịnh Tông Đồng Học Tu Hành Thủ Tắc

Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông
Phần 1
Tri ân báo ân
Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ
Học vi nhân sư, hành vi thế phạm

I. Giáo y (kinh giáo nương theo):

(1) Cùng nương theo Tịnh tông ngũ kinh nhất luận.
(2) Chuyên nhất nương theo Vô Lượng Thọ Kinh - Hạ lão hội tập bản, Phật Thuyết A Di Đà Kinh - Ngẫu Ích Đại Sư Yếu Giải, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm - Thanh Lương Đại Sư Sớ Sao để tu học.
(3) Nương theo Tịnh tông Tổ sư ngữ lục: Ấn Quang Đại Sư Văn Sao.

II. Lý y (lý luận nương theo):

(1) Lòng tin nương theo Yếu Giải lục tín (tự, tha, nhân, quả, sự, lý), vâng giữ pháp tạng nhiệm mầu Như Lai, hộ trì giống Phật khiến không dứt.

(2) Thập giới nhất chân, thế xuất thế pháp, duy tâm sở hiện, duy thức sở biến, quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch, thông chư pháp tánh, đạt chúng sinh tướng.

(3) An trụ trong trí huệ chân thật, khai hóa hiển bày chân thật tế, đem lại lợi ích chân thật, với các chúng sinh, xem như chính mình, niệm niệm lợi khắp quần sanh, tâm tâm lưu nhập biển giác.

(4) Lấy chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi làm tâm, lấy nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên làm hạnh, phá trừ hết thảy vọng tưởng chấp trước.

(5) Phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, quyết định một đời vãng sinh bất thoái thành Phật.

III. Hạnh y (thực hành theo):

(1) Quán Kinh Tam Phước: [1] Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp. [2] Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. [3] Phát bồ đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.

(2) Lục hòa kính: kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân.

(3) Tam vô lậu học: khởi tâm động niệm, vĩnh viễn xa lìa tam độc ác não, tất cùng thanh tịnh (giới), bình đẳng (định), chánh giác (huệ) tương ưng.

(4) Bồ Tát lục độ: hằng hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, sáu ba la mật, giáo hóa chúng sanh an trụ đạo vô thượng chân chánh.

(5) Phổ Hiền Thập Nguyện: đều cùng tuân tu hạnh đức của Phổ Hiền Đại Sĩ, [1] lễ kính chư phật, [2] xưng tán như lai, [3] quảng tu cúng dường, [4] sám hối nghiệp chướng, [5] tùy hỉ công đức, [6] thỉnh chuyển pháp luân, [7] thỉnh phật trụ thế, [8] thường tùy phật học, [9] hằng thuận chúng sinh, [10] phổ giai hồi hướng. Học tập Bồ Tát, tu đại nguyện này, không có cùng tận, niệm niệm tương tục, không để gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp, không hề nhàm mỏi.

IV. Quả cầu (kết quả mong đạt được):

(1) Thực tiễn tứ hảo, giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt, thành người tốt, thành tựu tự thân, trang nghiêm các hạnh, quỹ phạm đầy đủ.
(2) Noi theo năm mươi ba thiện hữu tri thức trong kinh Hoa Nghiêm, thề làm mô phạm tốt cho thế gian chúng sinh, gia đình, công tác, xã đoàn.
(3) Hòa mục các tộc quần, tôn giáo, văn hóa, giữ những điều khác biệt mà vẫn đạt tới sự hòa đồng, cùng tồn tại, cùng phát triển.
(4) An định xã hội, nhân đức hưng vượng, hỗ trợ hợp tác, mọi người đều bình đẳng, giàu có, vui vẻ, lợi lạc, hạnh phúc mỹ mãn, khuyến dụ sách tấn thế giới vĩnh cửu hòa bình.
(5) Tin sâu nhân quả, tín nguyện niệm Phật, cầu sinh Tịnh Độ, cùng chư thượng thiện, đồng hội Di Đà nhất thừa nguyện hải.

Bốn cương yếu trên đây xin kính cẩn cống hiến cho lần thứ nhất Tịnh Tông Liên Nghị Hội chư thượng thiện nhân tham khảo chỉ giáo.
Thích Tịnh Không kính hiến, tháng 12 năm 1997.


>> Xem tiếp phần 2: Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh (trích lục 62 điều)

Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2017

Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu


Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu
(Tịnh Không Pháp Sư hội tập)

Mục Lục

19. Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm 14 | Phẩm 47,48

(Kinh Thiện Ác Nhân Quả do HT Thích Trung Quán dịch, những kinh còn lại đều được trích từ bản Việt dịch Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh)

Link tải file nén: Địa Ngục Tập Yếu.rar

LỜI TỰA

Cận đại thế nhân mê tín khoa học, không tin nhân quả, không kính thiên địa, không biết luân thường đại đạo là nhân loại tự nhiên bản tánh, bởi vậy cả gan làm loạn, không việc ác nào không làm. Thật tình không biết, nhân quả báo ứng, tơ hào không sai. Tuy nói vạn pháp giai không, nhưng nhân quả bất không, bởi vì nhân quả có đủ tương tục bất không, chuyển biến bất không, tuần hoàn bất không, cho nên hết thảy thiện ác nghiệp đã tạo tác, tất chiêu cảm quả báo tương ứng.

Nhân sinh không chỉ có nỗi khổ sinh lão bệnh tử, sau khi chết đi đâu về đâu, mới là thiết thân lợi ích mọi người thật sự nhất định phải quan tâm, mà thứ mấu chốt liên quan đời đời kiếp kiếp luân hồi này, chúng ta không thể không biết, không thể không rõ ràng. Thế nhân tạo ác mãnh liệt, tương lai đọa địa ngục hỏa hải là kết quả tất nhiên. Quả thật như Thái Thượng Cảm Ứng Thiên viết: “Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu; thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình” (Họa và phước chẳng có cửa nẻo nhất định, chỉ do con người tự chuốc lấy. Thiện báo, ác báo như bóng theo hình). Không phải không báo, mà là thời điểm chưa tới.

Địa ngục từ đâu mà đến? Thế Tôn chỉ rõ hết thảy pháp từ tâm tưởng sinh. Bởi vì tâm tưởng khác biệt, tạo nghiệp liền không đồng nhất. Thiện nghiệp, ác nghiệp đều do tâm tạo, cho nên hình phạt trong địa ngục không phải Diêm Vương tạo ra, mà là ác nghiệp chiêu cảm. Như người nằm mộng, cảnh giới khổ vui trong mộng không có chỗ nào mà không phải là kết quả từ tâm tạo tác.

Những năm gần đây, nhà khoa học Nhật Bản, Tiến sĩ Giang Bổn Thắng (Masaru Emoto), lấy mười năm nghiên cứu quy luật biến hóa kết tinh của nước chứng minh, ý thức con người có thể làm thay đổi kết tinh của nước. Dùng tâm yêu thương, tâm cảm ân, các loại thiện niệm truyền cho nước, nước sẽ cho kết tinh vô cùng mỹ lệ. Nếu như dùng ác tâm ác ý, thì tạo thành kết tinh cực kỳ mơ hồ xấu xí. Cùng một lý đó mà biết được, nhân loại ý thức có thể cải biến hết thảy hoàn cảnh. Cho nên, thế giới Cực Lạc là duy tâm sở hiện, địa ngục cũng là tâm tưởng thức biến, như Kinh Hoa Nghiêm nói: “ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm sở tạo” (nên quán xét tánh thật của các pháp trên thế gian này tất cả đều là do tâm tạo thành).

Phật nói cho chúng ta biết: Nghiệp nhân đệ nhất của địa ngục là sân khuể, tật đố. Tâm sân khuể, tật đố nặng, là tâm tính phi thường phổ biến của con người hiện thời, lại thêm ý niệm tự tư tự lợi kiên cố, đều là nghiệp nhân tạo thành quả báo địa ngục, huống chi tạo tác ác nghiệp hữu hình, tất chạy không thoát địa ngục khổ quả. Cho nên, địa ngục là kết quả do chính tâm mình tạo tác, bất luận kẻ nào cũng không thể thay thế.

Nhà tâm lý học nước Mỹ Khải Tây (Cayce), từng dùng thuật thôi miên trị liệu bệnh nhân, ở trong thôi miên sâu, bệnh nhân có thể nói ra vài ngàn năm trước hoặc mấy chục đời trước đó, đời đời kiếp kiếp sự tình. Có ít người ở trong thôi miên nói ra, đời quá khứ từng đọa súc sinh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo đủ loại tình hình, cùng Phật kinh đã nói đều tương ứng, cho nên lục đạo luân hồi cùng nhân quả báo ứng là chân thật không giả.

Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả. Thánh phàm khác biệt ngay tại chỗ này. Bồ Tát biết rõ quả báo đáng sợ, cho nên khởi tâm động niệm, không dám tạo ác. Chúng sinh hôn muội vô tri, cả gan làm loạn, bất chấp hậu quả, thẳng đến khổ quả hiện tiền, chịu tội đến mức cùng cực, mới hối hận thì đã muộn. Nếu như không thấu rõ lý nhân quả, muốn quay đầu xác thực rất khó.

Ấn Quang tổ sư bi trí hoằng sâu, biết đại kinh đại luận đã không kịp cứu vãn thế gian kiếp nạn, duy chỉ có đề xướng nhân quả giáo dục, mới là con đường cứu thoát khỏi diệt vong. Cho nên, Ấn Tổ cả đời cực lực đề xướng in “Liễu Phàm tứ huấn”, “An Sĩ toàn thư”, “Thái Thượng cảm ứng thiên”, các loại nhân quả thiện thư v.v... đây là những sách giáo dục nhân quả phù hợp nhất với xã hội trước mắt, đánh thức nhân tâm hướng thiện. Có thể để cho mọi người biết, hết thảy tai nạn đều là quả báo mà tự thân tạo tác tội nghiệp cảm đến.

Rất nhiều tôn giáo điển tịch đều có miêu tả địa ngục, kinh điển Phật giáo là tường tận, phong phú nhất. Thế Tôn thương xót chúng sinh, ngoài Kinh Địa Tạng, còn có rất nhiều kinh điển tường thuật sự lý nhân quả, cùng đủ loại thảm trạng ở địa ngục. Nếu có thể đem tình trạng địa ngục công bố với thế nhân, để đại chúng minh bạch đọa lạc địa ngục nghiệp nhân quả báo cùng chân tướng sự thật, kịp thời cảnh tỉnh hối ngộ, nghĩ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm, tất có thể chuyển chúng sinh cộng nghiệp, tránh khỏi hạo kiếp trước đây chưa từng có!

Mấy vị đồng học ngày đêm phiên duyệt Đại Tạng Kinh, trải qua nửa tháng, cùng tìm ra hai mươi lăm bộ kinh luận tường thuật cụ thể tình trạng địa ngục, nội dung tường tận, nghiệp nhân minh xác, chủng loại phong phú, quả báo tàn khốc che kín tầng tầng, thật sự là nhìn thấy mà giật mình, trước đây chưa từng gặp. Quý vị đọc đến những kinh luận này, không chỉ có hãi hùng khiếp vía, mồ hôi lạnh chảy ròng, càng phát hiện mình khởi tâm động niệm không gì không phải là tạo nghiệp địa ngục, lúc này mới thật sự hiểu Kinh Địa Tạng nói tới: “Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội”. Nếu chúng ta có thể biết tình cảnh khi bất hạnh đọa lạc địa ngục chịu khổ, nhất định không dám tạo ác, tất nỗ lực phấn đấu, rửa sạch tâm niệm, thay đổi hành vi, sửa xưa tu nay, vĩnh ly nghiệp hải. Bèn tập kết cuốn sách này, hi vọng có thể cứu bạt chúng sinh, lìa khổ được vui.

Xem kỹ “Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu” thật có hiệu quả cảnh tỉnh. Nếu có thể kêu gọi in ấn, tuyên dương rộng rãi, khiến chúng nhân cảnh giác, giác ngộ chân tướng nhân quả ba đời, tự có thể hối lỗi hướng thiện, miễn trừ đau khổ địa ngục. Như thế, mới không phụ Thế Tôn đại từ nguyện lực, cùng Ấn Tổ dụng tâm lương khổ vậy!

Thích Tịnh Không kính ghi tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu
Ngày 01 tháng 01 năm 2005

Tinh Yếu Thập Niệm Pháp

(Nguồn: www.amtb.tw)

Xin kính cẩn đề nghị lấy "Giản Yếu Tất Sinh Thập Niệm Pháp" mà Tịnh Không Pháp Sư tuyên thuyết làm một loại thường quy để tự tu và cộng tu đối với Tịnh Tông học nhân. Nay xin thuyết minh như sau:

Đối với người tự tu, chính là phương pháp niệm mười tiếng Phật hiệu chín lần trong ngày:

1. Sáng sớm thức dậy
2. Trước khi ăn sáng
3. Trước khi bắt đầu công việc buổi sáng
4. Sau khi xong việc buổi sáng
5. Trước khi ăn trưa
6. Trước khi làm việc buổi chiều
7. Sau khi kết thúc công việc buổi chiều
8. Trước khi ăn tối
9. Trước khi đi ngủ

Mỗi lần xưng niệm mười tiếng bốn chữ hoặc sáu chữ danh hiệu Di Đà, thường ngày nếu có định khóa vẫn như thường lệ tiến hành.

Nếu là cộng tu, phàm giảng kinh, khai hội, liên hoan v.v... (không phải là những nghi thức đặc biệt), tại trước khi bắt đầu cộng đồng hành sự, liền thực hành pháp thập niệm này. Tức là mời đại chúng cùng chắp tay đồng thanh xưng niệm mười tiếng "Nam mô A Di Đà Phật", rồi sau đó bắt đầu tiến hành hoạt động giảng kinh, khai hội, dùng cơm v.v...

Dựa theo thập niệm pháp này để tự tu và cộng tu, có những lợi ích đặc thù như sau:

1. Phương pháp này đơn giản dễ hành, thời gian ngắn mà hiệu quả cao, xác thực thiết yếu, có thể áp dụng lâu dài và rộng rãi.

2. Là phương pháp cụ thể hữu hiệu để "Phật hóa gia đình". Ví dụ như thực hành với ba bữa cơm trong gia đình, thành viên toàn gia hoặc tin hoặc không tin đều được nhiếp trọn không sót. Còn có lợi ích lớn là có thể Phật hóa người thân, bạn bè, hàng xóm, cho đến phổ cập toàn xã hội.

3. Do đơn giản dễ hành, một ngày chín lần, từ sáng đến tối, Phật hiệu không gián đoạn, trong sinh hoạt một ngày, Phật niệm tương kế, ngày này qua ngày khác. Có thể duy trì như vậy, thì hành nhân khí chất tâm tính sẽ trở nên dần dần thanh tịnh, tín tâm cùng pháp lạc sẽ nảy sinh, phước lớn không cùng tận.

4. Nếu như có thể tùy thuận thân hòa, xưng niệm mười tiếng Phật hiệu, liền có thể khư trừ tạp nhiễm, trừng tịnh tâm niệm, ngưng tụ tâm thần, chuyên tâm vụ đạo, mọi việc dễ thành, thường gặp may mắn, được Phật gia hộ, công đức không thể nghĩ bàn.

5. Tự tu cùng cộng tu dung thông lẫn nhau, tích tụ tư lương, nắm chắc vãng sinh, mà cộng đồng bồ đề đại nghiệp cũng nhờ đó mà thành tựu.

6. Phương pháp này có hai tên gọi:

Một là "Tịnh Nghiệp Gia Hạnh Thập Niệm Pháp", là đối với người đã có định khóa, bởi vì pháp này là từ định khóa vốn có mà gia tăng thêm.

Hai là "Giản Yếu Tất Sinh Thập Niệm Pháp", là đối với phần lớn những người tu Tịnh nghiệp không có định khóa trong hiện tại và tương lai. Bởi vì hiện nay xã hội biến hóa, vội vã không ngừng, tình thế trở ngại, gặp nhiều khó khăn, mà phương pháp này dễ tụ tập đầy đủ tư lương Tín Nguyện Hạnh. Lại đối với tiêu chuẩn "nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối" cũng rất phù hợp không thiếu sót.

Bởi vì mỗi lần niệm Phật thời gian ngắn, dễ nhiếp tâm và không giải đãi, lại lấy công hạnh chín lần niệm Phật phân bố cân đối xuyên suốt cả ngày, thân tâm trong cả một ngày không thể không chuyển hóa thành tâm Phật. Đó là cả ngày sinh hoạt đã được niệm Phật hóa, niệm Phật đã được sinh hoạt hóa.

Nói tóm lại, pháp này giản yếu mà thoải mái, không một chút khổ vì khó khăn cứng nhắc, nếu pháp này được lưu thông rộng rãi, thì Tịnh nghiệp học nhân may mắn lắm! Chúng sinh vị lai may mắn lắm! Chư Phật hoan hỷ!

Nam mô A Di Đà Phật

Ngày Chư Phật hoan hỷ năm 1994
Mỹ quốc Tịnh Tông Học Hội, tứ chúng đồng luân kính khuyến.

>> Xem thêm: Khóa Tụng Sáng Tối

Thứ Sáu, 10 tháng 11, 2017

Khóa Tụng Sáng Tối


Tảo Vãn Khóa Tụng Nghi Quy
(Tịnh Không Pháp Sư giám định)
Nguồn: www.amtb.tw

Có rất nhiều đồng học thường hỏi về khóa tụng sáng tối, vì vậy ở đây hội tập vài loại khóa tụng của pháp môn Tịnh Độ, cung cấp các đồng học căn cứ thời gian khóa tụng mỗi ngày của chính mình dài hay ngắn mà chọn một loại trong đó để tu học. Nếu có thể tận hết một đời này, không có ngày nào tạm phế, tất có thành tựu!

1. Tịnh Tông Triều Mộ Khóa Bản do Tịnh Không Pháp Sư biên soạn. (Khóa sáng tụng phẩm 6, khóa tối tụng các phẩm từ 32 đến 37 kinh Vô Lượng Thọ)

2. Khóa tụng theo lời dạy của Ấn Quang Đại Sư: Kinh A Di Đà 1 biến, chú Vãng Sinh 3 biến, kệ tán Phật 1 biến, niệm Phật hiệu trăm câu, ngàn câu hoặc vạn câu tùy theo hoàn cảnh nhàn hay bận của mình mà định số, mỗi danh hiệu Bồ Tát 3 lần hoặc 10 lần, sau đó niệm kệ phát nguyện hồi hướng 1 biến.

Cụ thể như sau:

- Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần)
- Phật Thuyết A Di Đà Kinh (1 biến)
- Vãng Sinh Chú (3 biến)
- Tán Phật Kệ:
A Di Ðà Phật thân sắc vàng
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát

- Nam Mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
- Nam Mô A Di Đà Phật (trăm câu, ngàn câu, ba ngàn câu, càng nhiều càng tốt, tùy theo hoàn cảnh nhàn bận mà định số. Vô luận niệm nhiều hay ít, chỉ nên từ ít tăng lên nhiều, không được từ nhiều giảm xuống ít)

Niệm Phật hiệu xong trở về chỗ, niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát mỗi danh hiệu 3 lần:

- Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
- Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
- Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát

- Kệ Hồi Hướng:

a) Một lòng quy mạng, Thế giới Cực Lạc, Phật A Di Đà. Xin đem ánh tịnh, Soi chiếu thân con; Dùng nguyện từ bi, Mà nhiếp thọ con. Nay con chính niệm, Xưng hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Xưa Phật lập thệ: Nếu chúng sanh nào, Muốn về nước ta, Hết lòng tin ưa, Xưng danh hiệu ta, Cho đến mười niệm, Như không được sanh, Ta không thành Phật. Nay con nguyện nương, Nhân duyên niệm Phật, Được vào biển thệ, Của đức Như Lai; Nhờ sức Từ Tôn, Tiêu trừ các tội, Thêm lớn căn lành. Con nguyện lâm chung, Biết ngày giờ trước, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào thiền định. Phật cùng Thánh Chúng, Tay cầm đài vàng, Đến tiếp dẫn con. Trong khoảng một niệm, Con về Cực Lạc, Hoa nở thấy Phật, Được nghe Phật thừa, Tỏ thông Phật huệ, Độ khắp chúng sanh, Mãn Bồ Đề nguyện.
Mười phương ba đời Phật, hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha Bát nhã Ba La Mật.

b) Con nay xưng niệm A Di Đà, danh hiệu Phật công đức chân thật. Kính xin từ bi thương nhiếp thọ, chứng biết con sám hối, nguyện cầu. Xưa kia đã tạo bao nghiệp ác, đều do vô thủy tham sân si. Từ thân - miệng - ý phát sanh ra, hết thảy con nay xin sám hối. Nguyện con vào lúc sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy các chướng ngại, tận mặt thấy Phật A Di Đà, liền được vãng sanh cõi An Lạc. Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ. Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường. Nếu có ai thấy nghe, đều phát Bồ Đề tâm. Hết một báo thân này, cùng sanh cõi Cực Lạc.
Mười phương ba đời Phật, hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

(Trong 2 bài hồi hướng kệ tùy ý chọn một bài, khi niệm cần nương theo văn nghĩa mà phát tâm, nếu tâm không nương theo văn thì sẽ thành ra uổng công đọc suông, không được lợi ích thực sự, niệm kệ hồi hướng xong niệm Tam Quy Y, lễ bái lui ra. Ðây là công khóa sáng, buổi tối cũng như vậy.)

3. Khóa tụng của cư sĩ Lý Bỉnh Nam
Nếu như công việc cực kỳ bận rộn, [không có thời gian tụng kinh] thì chỉ cần niệm Phật cũng được, có thể dựa theo lời dạy của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam:

Khóa sáng thì lúc vừa ngủ dậy, khóa tối thì trước khi đi ngủ, rửa tay, súc miệng, đến trước tượng Phật, thắp nhang, dâng nước, chắp tay cung kính, rồi quỳ hoặc đứng, hoặc ngồi xếp bằng, dùng tâm chí thành niệm theo thứ tự sau:

- Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (niệm một lần, lễ một lạy).
- Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần, lễ một lạy).
- Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Ðà Phật (niệm một lần, lễ một lạy).
- Nam mô A Di Ðà Phật (trăm câu, ngàn câu, hai, ba ngàn câu, càng nhiều càng hay. Tùy mỗi người rảnh hay bận mà định số, nhưng phải từ ít tăng lên nhiều, chẳng được từ nhiều giảm ít đi. Bất luận niệm nhiều hay ít, chẳng cần phải lạy).
- Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy).
- Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (như trên).
- Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (như trên).

- Kệ Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh Ðộ.
Trên đền bốn ân nặng.
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe.
Ðều phát lòng Bồ Ðề,
Hết một báo thân này,
Cùng sanh cõi Cực Lạc.
(lễ ba lạy)

(Theo Tuyết Lư Lão Nhân Tịnh Độ Tuyển Tập)

4. Chuyên nhất lễ bái Phật A Di Đà
Thân lạy Phật, tâm tưởng Phật, sáng tối đều như vậy. Lạy Phật không chỉ có là rèn luyện thân thể mà còn có thể sám trừ nghiệp chướng, tiêu trừ tâm ngạo mạn, đạt đến hiệu quả tu hành tốt nhất "thân động, tâm bất động". Lạy Phật xong niệm kệ hồi hướng, cầu sinh Tây Phương Cực Lạc.

Tại khóa tụng buổi tối, trước khi tụng kinh và sau khi tụng kinh, đối trước tượng Phật chắp tay lạy ba lạy. Nếu như không có tượng Phật thì hướng về quyển kinh hoặc hướng về phương Tây cũng được. Quả có thể thường hành trì không gián đoạn như thế, Phật ắt sẽ từ bi thương xót, cầu nguyện vãng sinh tất có thể được mãn nguyện. Lúc lâm chung Phật cùng thánh chúng phóng quang tiếp dẫn, vãng sinh Cực Lạc.

Tu học pháp môn Tịnh Độ, cần phải sinh Tín Nguyện, chớ có hoài nghi.
Phía trên đã nêu là khóa tụng sáng tối mỗi ngày, nếu là người cực nhàn, ngoài hai thời sáng tối ra, mỗi thời mỗi khắc đều không rời câu Phật hiệu. Người nửa nhàn nửa bận, ngay khi làm việc xong liền niệm Phật, trong 4 loại khóa tụng sáng tối ở trên tùy ý chọn một loại làm khóa tụng cho mình. Nếu như là người cực bận, không cách nào hoàn thành hai loại khóa tụng phía trước, có thể chọn loại thứ ba. Chỉ cần ngày ngày kiên trì, không để gián đoạn, công phu ngay tại trong đó.

Lập khóa tụng sáng tối, ước định số câu niệm Phật, số lần lạy Phật, có thể từ ít tăng lên nhiều, kỵ nhất trước nhiều sau ít, nên tùy theo công phu của chính mình mà tăng dần.
Ví như ban đầu mỗi lần niệm một ngàn tiếng Phật hiệu, nếu như qua một thời gian, có thể ngày ngày kiên trì, lại tăng thêm số câu niệm Phật, cứ như vậy chậm rãi từng bước một gia tăng, tín tâm và sức hành trì của mình sẽ càng ngày càng kiên cố, không dễ thoái chuyển. Nếu như ban đầu công khóa định quá nhiều, giả sử có một ngày không thể hoàn thành, một khi đã lười biếng, muốn tinh tấn trở lại liền gặp khó khăn. Tu hành kỵ nhất một nóng mười lạnh, cần phải tuần tự tiệm tiến, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Thỉnh các đồng học từ ít đến nhiều, dần dần tăng số lượng, ngày ngày kiên trì, công phu ngay ở chỗ miên mật không gián đoạn mà tăng trưởng.

Phật Đà Giáo Dục Võng Lộ Học Viện kính dâng
Ngày 30 tháng 3 năm 2006