Thứ Ba, 12 tháng 12, 2017

Năm Bản Dịch Gốc Của Kinh Vô Lượng Thọ (PDF)


ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ KINH NGŨ CHỦNG NGUYÊN DỊCH

1. Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh, do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch đời Hậu Hán. (Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh)

2. Phật Thuyết Chư Phật A Di Ðà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Ðàn Quá Ðộ Nhân Ðạo Kinh, tên khác là Vô Lượng Thọ Kinh, tên khác nữa là A Di Ðà Kinh, do ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô. (Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh)

3. Vô Lượng Thọ Kinh, do ngài Khang Tăng Khải dịch vào đời Tào Ngụy. (Việt dịch: HT Thích Tuệ Đăng)

4. Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, do ngài Bồ Ðề Lưu Chí dịch vào đời Ðường. (Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh)

5. Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, do ngài Pháp Hiền dịch vào đời Triệu Tống. (Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh)

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

A Di Đà Kinh Yếu Giải Tinh Hoa Lục


A DI ĐÀ KINH YẾU GIẢI TINH HOA LỤC
(Tịnh Không Pháp Sư)
Nguồn: http://www.amtb.tw/pdf/01-12jy.pdf

1. Nguyên vì chư Phật nghĩ thương xót quần mê, tùy theo từng căn cơ mà lập cách hóa độ. Trở về nguồn thì chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa. Trong hết thảy các phương tiện, cầu lấy một phương tiện thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, thì không gì bằng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

2. Trong hết thảy các pháp môn Niệm Phật, cầu lấy một pháp đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa nhất, thích đáng nhất, thì không gì bằng “tín, nguyện, chuyên trì danh hiệu”. 

3. Pháp Trì Danh thích hợp trọn khắp ba căn, thâu nhiếp Sự lẫn Lý chẳng sót, bao trùm Tông lẫn Giáo chẳng thừa, thật là chẳng thể nghĩ bàn.

4. Phật mang chí nguyện độ sanh, căn cơ thành Phật của chúng sanh đã chín muồi, bèn giảng cho họ biết pháp khó tin, khiến họ được giải thoát rốt ráo.

5. A Di Đà, cõi này dịch là Vô Lượng Thọ, còn dịch là Vô Lượng Quang. Nói tới những điểm trọng yếu thì công đức, trí huệ, thần thông đạo lực, sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo, thuyết pháp, hóa độ, mỗi mỗi đều vô lượng.

6. A Di Đà, là đấng đạo sư của cõi đang được nói đến. Ngài dùng bốn mươi tám nguyện tiếp độ chúng sanh tín nguyện niệm Phật sanh về thế giới Cực Lạc, vĩnh viễn đạt đến địa vị Bất Thoái.

7. Nếu không có Tín, sẽ chẳng đủ để khơi gợi Nguyện. Không có Nguyện, sẽ chẳng đủ để hướng dẫn Hạnh. Không có diệu hạnh Trì Danh, chẳng đủ để thỏa mãn Nguyện, hòng chứng thực Tín.

8. Tín là tín Tự, tín Tha, tín Nhân, tín Quả, tín Sự, tín Lý.

9. Nguyện thì chán lìa Sa Bà, vui ưa Cực Lạc.

10.  Hạnh thì chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn.

11. Thích Ca Như Lai quyết chẳng nói dối, Di Đà Thế Tôn quyết chẳng nguyện xuông, tướng lưỡi rộng dài của sáu phương chư Phật quyết chẳng nói hai lời. Tùy thuận giáo huấn chân thật của chư Phật, quyết chí cầu vãng sanh, chẳng còn ngờ vực gì.

12. Tin tưởng sâu xa, tâm tán loạn xưng danh vẫn còn tạo nên hạt giống thành Phật [trong tương lai], huống hồ nhất tâm bất loạn, lẽ nào chẳng được sanh về Tịnh Độ?

13. Tin tưởng Tịnh Độ sâu xa là nơi các vị thiện nhân tụ hội, đều do Niệm Phật tam-muội mà được vãng sanh.

14. Sa Bà chính là nhơ uế do chính tâm mình cảm thành, đối với sự nhơ uế trong tự tâm, theo đúng lý phải nên chán lìa. Cực Lạc chính là sự thanh tịnh do tự tâm cảm vời, đối với sự thanh tịnh trong tự tâm, theo đúng lý phải nên ưa cầu.

15. Do đức chẳng thể nghĩ bàn, nên danh hiệu cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn, nên khiến cho tâm tán loạn xưng danh vẫn tạo thành hạt giống Phật, hễ chấp trì danh hiệu bèn đạt Bất Thoái.

16. Pháp Trì Danh đáng gọi là phương tiện bậc nhất trong các phương tiện, là vô thượng liễu nghĩa trong các liễu nghĩa, là viên đốn tối cực trong các pháp viên đốn.

17. Tín nguyện trì danh là cái nhân chân thực của Nhất Thừa, bốn cõi Tịnh Độ là cái quả màu nhiệm của Nhất Thừa.

18. Bất Thoái có bốn nghĩa:
(1) Niệm Bất Thoái: Phá vô minh, hiển Phật tánh, mau chóng sanh về cõi Thật Báo, chứng một phần cõi Tịch Quang.
(2) Hạnh Bất Thoái: Đã trừ được Kiến Hoặc và Tư Hoặc, cũng phá được Trần Sa Hoặc, sanh về cõi Phương Tiện, tiến hướng cực quả.
(3) Vị Bất Thoái: Đới nghiệp vãng sanh, ở trong cõi Đồng Cư, gởi thân nơi hoa sen, vĩnh viễn lìa khỏi duyên thoái thất.
(4) Tất Cánh Bất Thoái: Chẳng cần biết là chí tâm hay tán tâm, hữu tâm hay vô tâm, hiểu hoặc chẳng hiểu, chỉ cần danh hiệu Di Đà, hoặc danh hiệu của chư Phật trong sáu phương và tên gọi kinh này, vừa nghe thoảng qua tai, giả sử ngàn vạn kiếp sau, rốt ráo sẽ do điều này mà được độ thoát.

19. Ở chung với các bậc thượng thiện, tức là sanh vào cõi Đồng Cư thì là đã sanh ngang sang ba cõi trên, trong một đời được bổ xứ thành Phật. Đấy là [hễ dự vào] Vị Bất Thoái thì là đã chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái.

20. Tương lai khi kinh pháp diệt sạch, riêng lưu lại kinh này một trăm năm trong cõi đời để rộng độ hàm thức. Dứt bặt đối đãi một cách viên dung, chẳng thể nghĩ bàn.

21. Tạng sâu mầu của kinh Hoa Nghiêm, cốt tủy bí mật của Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy chư Phật, là kim chỉ nam cho vạn hạnh của Bồ Tát, đều chẳng ra ngoài kinh này.

22. Tỳ-kheo gồm ba nghĩa:
(1) Khất Sĩ: Một bát nuôi thân, không tích cóp gì, chuyên cầu pháp yếu xuất thế.
(2) Phá Ác: Chánh huệ quán sát, phá ác phiền não, chẳng đọa vào ái kiến.
(3) Bố Ma (làm cho ma kinh sợ): Phát tâm thọ giới, tác pháp Yết Ma thành tựu, ma liền kinh sợ.

23. Tăng, gọi đủ là Tăng Già, cõi này dịch là Hòa Hợp Chúng. Cùng chứng sự giải thoát vô vi thì gọi là Lý Hòa (hòa hợp về mặt Lý). Thân cùng ở, miệng không tranh cãi, tâm ý cùng vui vẻ, cùng hiểu biết giống như nhau, cùng tu giới như nhau, chia sẻ quyền lợi đồng đều thì gọi là Sự Hòa.

24. Những Bồ Tát thuộc địa vị sâu xa đều cầu sanh Tịnh Độ, vì chẳng lìa thấy Phật, vì chẳng lìa nghe pháp, vì chẳng lìa thân cận cúng dường chúng tăng, để có thể mau chóng viên mãn Bồ Đề vậy.

25. Pháp môn Tịnh Độ nhiếp trọn ba căn, dứt bặt đối đãi một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Gồm thâu trọn vẹn, nhưng vượt thoát trọn vẹn hết thảy pháp môn, rất sâu, khó tin.

26. Hai chữ Hữu và chữ “hiện tại” chính là phần Tựa nhằm khuyến tín. “Thế giới tên là Cực Lạc” là phần Tựa khuyên hãy nên phát nguyện. “Phật hiệu A Di Đà”, chính là phần Tựa nhằm khuyên [thực hành] diệu hạnh Trì Danh.

27. “Tín, nguyện, trì danh” là tông chỉ trọng yếu của bộ kinh này. Tín và nguyện là Huệ Hạnh, trì danh là Hành Hạnh. Được vãng sanh hay không hoàn toàn là do có tín, nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp, hoàn toàn là do trì danh sâu hay cạn.

Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2017

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Tiết Yếu

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN TIẾT YẾU
(Tịnh Không Pháp Sư)
Nguồn: http://www.amtb.tw/pdf/EB28-07-01.pdf

1. Thái Thượng viết: - Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu.
Thái Thượng nói: - Họa và phước chẳng có cửa nẻo [nhất định], chỉ do con người tự chuốc lấy.

2. Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.
Thiện báo, ác báo như bóng theo hình.

3. Thị đạo tắc tấn, phi đạo tắc thoái.
Hợp đạo thì tiến, trái đạo thì lui.

4. Tích đức lũy công.
Tích lũy công đức.

5. Từ tâm ư vật.
Từ tâm đối với muôn loài.

6. Trung hiếu hữu đễ.
Trung, hiếu, thuận thảo với anh em.

7. Chánh kỷ hóa nhân.
Sửa mình, dạy người.

8. Căng cô tuất quả, kính lão hoài ấu.
Thương xót con côi, cứu giúp quả phụ. Kính già, thương trẻ.

9. Nghi mẫn nhân chi hung, nhạo nhân chi thiện.
Hãy nên xót thương kẻ ác, vui vì điều thiện của người.

10. Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy.
Giúp người trong cơn nguy cấp.

11. Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc. Kiến nhân chi thất, như kỷ chi thất.
Thấy người khác đạt được, [cảm thấy] như chính mình đạt được. Thấy người khác mất mát, [cảm thấy] như chính mình bị mất mát.

12. Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường.
Chẳng phô bày sự kém cỏi của kẻ khác, chẳng khoe khoang cái hay của chính mình.

13. Át ác dương thiện.
Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều lành.

14. Thôi đa thủ thiểu.
[Khi phân chia], nhường cho người khác phần nhiều, giữ cho mình phần ít.

15. Thọ nhục bất oán.
Bị nhục chẳng oán.

16. Thọ sủng nhược kinh.
Được sủng ái phải sợ.

17. Thi ân bất cầu báo, dữ nhân bất truy hối.
Thi ân chẳng cầu báo, đã cho người khác thì đừng nghĩ lại rồi hối tiếc.

18. Sở vị thiện nhân, nhân giai kính chi, thiên đạo hựu chi, phước lộc tùy chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi, sở tác tất thành.
Người được coi là thiện nhân ai cũng đều kính trọng, đạo trời giúp đỡ họ, phước lộc thuận theo, các thứ tà quái tránh xa, do họ được thần linh hộ vệ, việc làm ắt thành.

19. Cẩu hoặc phi nghĩa nhi động, bối lý nhi hành.
Nếu có kẻ làm những điều phi nghĩa, trái nghịch đạo lý [như sau]:

20. Dĩ ác vi năng, nhẫn tác tàn hại.
Coi thủ đoạn độc ác là tài năng, nhẫn tâm làm chuyện tàn ác, độc hại.

21. Âm tặc lương thiện, ám vũ quân thân.
Ngầm hại người lương thiện, ngầm khinh vua và cha mẹ.

22. Mạn kỳ tiên sinh, bạn kỳ sở sự.
Khinh rẻ thầy dạy, phản bội người mình phải phụng sự.

23. Cuống chư vô thức, báng chư đồng học.
Lừa kẻ không hiểu biết, gièm báng bạn học.

24. Hư vu trá ngụy, công kiết tông thân.
Dối trá, hư ngụy, công kích thân thuộc.

25. Cang cường bất nhân, ngận lệ tự dụng.
Ương bướng bất nhân, sử dụng những thủ đoạn độc ác, tàn nhẫn.

26. Thị phi bất đang, hướng bối quai nghi.
Chẳng phân biệt đúng sai, phải trái, tráo trở ngược xuôi.

27. Ngược hạ thủ công, siểm thượng hy chỉ.
Ngược đãi kẻ dưới để lập công, nịnh bợ kẻ trên để đón ý [cầu lợi].

28. Thọ ân bất cảm, niệm oán bất hưu.
Chịu ơn [người khác] mà chẳng cảm kích, luôn ôm lòng oán hận chẳng dứt.

29. Lăng cô bức quả.
Lăng nhục con côi, bức hại bà góa.

30. Khí pháp thọ lộ.
Coi thường pháp luật mà tiếp nhận hối lộ.

31. Dĩ trực vi khúc, dĩ khúc vi trực.
Coi thẳng là cong, lấy cong làm thẳng.

32. Tri quá bất cải, tri thiện bất vi.
Biết lỗi chẳng sửa, biết điều thiện mà chẳng làm.

33. Sán báng thánh hiền.
Chê bai, báng bổ thánh hiền.

34. Xâm lăng đạo đức.
Xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức.

35. Nguyện nhân hữu thất, hủy nhân thành công.
Mong cho người khác phạm sai lầm, hủy hoại sự thành công của người khác.

36. Dĩ ác dịch hảo, dĩ tư phế công.
Dùng thứ xấu thay cho đồ tốt [trong khi giao dịch]. Vì lòng riêng tư mà phế trừ lẽ công.

37. Thiết nhân chi năng, tế nhân chi thiện.
Trộm cắp tài năng của kẻ khác. Che lấp điều lành của người khác.

38. Ly nhân cốt nhục, xâm nhân sở ái, trợ nhân vi phi.
Chia lìa cốt nhục của kẻ khác. Xâm phạm những thứ yêu thích của người khác. Giúp kẻ khác làm quấy.

39. Tỏa nhân sở trường, hộ kỷ sở đoản.
Ém tài người khác, giấu diếm sự kém cỏi của chính mình.

40. Khuể nộ sư phó, chỉ xúc phụ huynh.
Oán giận thầy dạy của chính mình. Xung đột với cha anh.

41. Thưởng phạt bất bình, dật lạc quá tiết.
Thưởng phạt chẳng công bằng. Hưởng lạc quá độ.

42. Hà ngược kỳ hạ, khủng hách ư tha.
Hà khắc, ngược đãi cấp dưới. Đe dọa người khác.

43. Oán thiên vưu nhân, ha phong mạ vũ.
Oán trời hờn người. Chửi gió, mắng mưa.

44. Đấu hợp tranh tụng. Vọng trục bằng đảng.
Tranh chấp kiện tụng. Kéo bè kết đảng làm quấy.

45. Đắc tân vong cố. Khẩu thị tâm phi.
Có mới nới cũ. Tâm khẩu chẳng nhất trí.

46. Hủy nhân xưng trực, mạ thần xưng chánh.
Hủy báng kẻ khác, tự khoe bản thân chánh trực. Nhục mạ thần linh, tự xưng mình là chánh đáng.

47. Cốt nhục phẫn tranh. Nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận.
Ruột thịt giận dữ, tranh chấp. Trai không trung lương. Gái chẳng nhu thuận.

48. Bất hòa kỳ thất, bất kính kỳ phu.
Bất hòa với vợ. Chẳng kính trọng chồng.

49. Mỗi hiếu căng khoa, thường hành đố kỵ.
Thường thích khoác lác, kiêu căng. Thường hay ganh tỵ.

50. Tự chú chú tha, thiên tăng thiên ái.
Rủa mình, rủa người. Yêu ghét thiên vị.

51. Tổn tử đọa thai, hành đa ẩn tịch.
Tổn hại con cái, phá thai. Làm nhiều chuyện ám muội.

52. Tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi, nhi cát thần dĩ tùy chi.
Hễ dấy thiện niệm, tuy chưa làm lành, cát thần đã đi theo.

53. Tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi, nhi hung thần dĩ tùy chi.
Tâm móng niệm ác, tuy chưa làm ác, hung thần đã theo.

54. Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu tất hoạch cát khánh. Sở vị chuyển họa vi phước dã.
Nếu kẻ đã từng làm ác, về sau sửa đổi, hối hận, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, lâu ngày chầy tháng, ắt được cát khánh, đó gọi là “chuyển họa thành phước” vậy.

55. Cát nhân ngữ thiện, thị thiện, hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất giáng chi phước.
Người tốt nói lời lành, xem điều lành, làm điều lành, mỗi ngày có ba điều lành thì ba năm trời ắt ban phước cho.

56. Hung nhân ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa.
Kẻ ác nói lời ác, xem điều ác, làm điều ác, mỗi ngày có ba điều ác, ba năm trời ắt sẽ giáng họa.

Thứ Sáu, 1 tháng 12, 2017

Ấn Quang Đại Sư Nhiếp Tâm Niệm Phật Pháp


ẤN QUANG ĐẠI SƯ PHÁP NGỮ

* NHIẾP TÂM NIỆM PHẬT PHÁP *
(Phương pháp nhiếp tâm niệm Phật)

Nguồn: http://www.amtb.tw/pdf/EB16-19-01.pdf
(Trích từ bản dịch của Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa)

1. Thư trả lời cư sĩ Cao Thiệu Lân (thư thứ tư)

... hãy nên nhiếp tâm khẩn thiết niệm, sẽ tự có thể quy nhất. Pháp nhiếp tâm không pháp nào chẳng trước hết phải chí thành khẩn thiết. Tâm không chí thành mà muốn nhiếp tâm thì không có cách nào cả! Nếu đã chí thành mà vẫn chưa thuần nhất, hãy nên lắng tai nghe kỹ, bất luận niệm ra tiếng hay niệm thầm, đều phải niệm từ tâm khởi, tiếng từ miệng lọt ra, âm thanh lọt vào tai (niệm thầm dẫu miệng không động, nhưng trong ý vẫn có tướng miệng niệm), tâm - miệng niệm cho rõ ràng, rành mạch, tai nghe cho rõ ràng, rành mạch. Nhiếp tâm như thế, vọng niệm tự dứt.
    Nếu vọng niệm vẫn còn nổi sóng, thì dùng pháp Thập Niệm Ký Số, tức là đem sức lực toàn tâm đặt nơi một tiếng Phật hiệu, dẫu muốn khởi vọng cũng không có sức. Diệu pháp nhiếp tâm niệm Phật rốt ráo này xưa kia các vị hoằng truyền Tịnh Độ chưa đề cập đến là vì căn tánh con người [khi ấy] còn thông lợi, chẳng cần phải làm như thế mới có thể quy nhất được! Ấn Quang do tâm khó chế phục, mới biết cái hay của pháp này. Càng thử càng thấy hay, chẳng phải là nói mò đâu nhé. Nguyện khắp thiên hạ những kẻ độn căn đời sau đều cùng sử dụng khiến cho vạn người tu vạn người về.
Pháp Thập Niệm Ký Số vừa nói đó chính là trong lúc niệm Phật, từ một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, lại phải nhớ phân minh, đến mười câu là thôi. Lại phải niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi. Niệm đâu nhớ đấy, không được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu nhớ thẳng vào mười câu thấy khó thì chia thành hai hơi, tức là từ câu thứ nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn thấy mệt, nên từ câu một đến câu ba, từ câu bốn đến câu sáu, từ câu bảy đến câu mười, chia làm ba hơi để niệm. Niệm cho rõ ràng, nhớ cho rõ ràng, nghe cho rõ ràng, vọng niệm không chỗ chen chân, nhất tâm bất loạn, niệm lâu ngày sẽ tự được.
    Phải biết mười niệm này giống như cách nhiếp vọng bằng pháp Thập Niệm buổi sáng, nhưng công dụng khác xa. Buổi sáng mười niệm thì hết một hơi là một niệm, chẳng luận số câu niệm Phật nhiều - ít. Cách này lấy một câu Phật hiệu làm một niệm, còn cách kia chỉ có thể niệm mười hơi vào buổi sáng. Nếu niệm hai mươi, ba mươi hơi sẽ tổn khí thành bệnh. Cách niệm này một niệm là một câu Phật hiệu, tâm biết một câu, niệm mười câu Phật hiệu, tâm biết mười câu. Từ một đến mười, rồi lại từ một đến mười, dẫu cả ngày niệm mấy vạn tiếng cũng đều nhớ như thế. Chẳng những trừ vọng lại còn dưỡng thần tốt nhất. Niệm mau hay chậm trọn không trở ngại, từ sáng đến tối, không gì không thích hợp.
    So với cách lần chuỗi nhớ số, lợi ích khác nhau một trời một vực. Cách kia (tức cách niệm bằng lần chuỗi) thân mệt, thần động, cách này thân nhàn tâm an. Nhưng lúc làm việc nếu khó nhớ số thì cứ khẩn thiết niệm thẳng. Làm việc xong, lại nhiếp tâm nhớ số như cũ. Dẫu ý niệm loang loáng đến đi, cũng vẫn quẩn quanh chuyên chú nơi một cảnh Phật hiệu. Đại Thế Chí nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa, ấy là bậc nhất”. Kẻ lợi căn chẳng cần phải nói nữa, nếu là hạng độn căn như bọn ta, bỏ pháp Thập Niệm Ký Số này, muốn nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, thật khó khăn lắm!
    Lại phải biết pháp nhiếp tâm niệm Phật này tuy cạn mà sâu, tuy nhỏ mà lớn, là pháp chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ nên thường ngửa tin lời Phật, chớ vì mình thấy không đến nơi đến chốn bèn sanh nghi hoặc, đến nỗi thiện căn nhiều kiếp do đây bị mất, chẳng thể rốt ráo tự đạt được lợi ích thật sự, đáng buồn lắm! Lần chuỗi niệm Phật chỉ nên làm trong hai lúc đi và đứng. Nếu tịnh tọa dưỡng thần, do tay động nên thần chẳng an, lâu ngày thành bệnh. Pháp Thập Niệm Ký Số này đi, đứng, nằm, ngồi, không gì chẳng thích hợp. Lúc nằm chỉ nên niệm thầm, không được niệm ra tiếng. Nếu niệm ra tiếng thì một là bất kính, hai là tổn khí, hãy nhớ kỹ, nhớ kỹ!

2. Thư gởi nữ sĩ Từ Phước Hiền

... Niệm Phật cần phải nhiếp tâm, niệm từ tâm khởi, tiếng từ miệng phát ra, đều phải mỗi câu mỗi chữ phân minh rành rẽ. Lại phải lắng tai nghe kỹ, từng câu từng chữ nạp vào trong tâm. Nhĩ căn đã nhiếp thì các căn kia không cách chi rong ruổi bên ngoài, mới hòng mau đạt nhất tâm bất loạn.
    Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa ấy là bậc nhất” chính là chỉ về điều này vậy. Ngài Văn Thù nói: “Quay trở lại nghe nơi tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” cũng nhằm chỉ điều này. Chớ bảo pháp Trì Danh là thiển cận rồi bỏ bê, tu theo những pháp Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng. Phàm trong bốn cách niệm Phật chỉ có Trì Danh là khế cơ nhất. Trì đến nhất tâm bất loạn thì diệu lý Thật Tướng hiển lộ toàn thể, Tây Phương diệu cảnh triệt để phô bày trọn vẹn. Do trì danh chứng được Thật Tướng, chẳng cần quán tưởng vẫn thấy được thấu triệt Tây Phương. Một pháp Trì Danh chính là huyền môn để nhập đạo, là đường tắt để thành Phật. Người đời nay giáo lý quán pháp chẳng hiểu rõ. Nếu tu quán tưởng Thật Tướng rất có thể bị ma dựa, khéo quá hóa vụng, cầu thăng hóa đọa. Nên tu hạnh dễ hành, ắt tự cảm được quả chí diệu.

3. Trả lời thư hai vị cư sĩ Từ Ngạn Như và Từ Dật Như

    Quý vị nói chuyện đời ràng buộc, không cách gì thoát khỏi được thì ngay trong lúc bị ràng buộc ấy chỉ cần không bị chúng xoay chuyển thì ràng buộc liền thành cởi gỡ, như gương chiếu hình tượng, hình đến chẳng cự tuyệt, hình đi chẳng giữ lại. Nếu không biết nghĩa này, dẫu có trừ sạch mọi chuyện thế tục không còn có chuyện gì phải lo toan thì cũng vẫn bị cái tâm vọng tưởng, tán loạn, ràng buộc kiên cố, chẳng thể gột rửa, thoát khỏi. Người học đạo phải hành xử thuận theo địa vị, tận hết bổn phận của mình. Như thế thì dù suốt ngày việc đời ràng buộc, nhưng suốt ngày vẫn cứ tiêu dao ngoài vật. Câu nói “nhất tâm vô trụ, vạn cảnh đều nhàn, chẳng ghét lục trần vẫn đồng Chánh Giác” chính là nói về điều này vậy.
    Chuyện niệm Phật quan trọng nhất là liễu sanh tử, đã vì liễu sanh tử thì tự sanh lòng nhàm chán đối với nỗi khổ sanh tử, tự sanh lòng ưa thích đối với sự vui Tây Phương. Như thế thì hai pháp Tín - Nguyện sẽ được vẹn toàn ngay trong một niệm, lại thêm niệm chí thành khẩn thiết như con nhớ mẹ thì Phật lực, pháp lực, sức công đức tín nguyện nơi tự tâm, ba pháp đều phô bày trọn vẹn. Ví như mặt trời rạng rỡ giữa hư không, dẫu mây dầy, băng đóng tầng tầng, chẳng mấy chốc liền tiêu tan. Lúc sơ tâm niệm Phật, chưa tự chứng được tam-muội, ai có thể không có vọng niệm cho được? Quý sao tâm thường giác chiếu, chẳng chuyển theo vọng, ví như quân hai bên đối địch, ắt phải giữ vững thành quách của chính mình, chẳng cho quân giặc xâm phạm tí ti nào, đợi khi giặc vừa tấn công bèn đánh chặn đầu. Ắt phải xua quân Chánh Giác vây kín bốn mặt khiến cho chúng nó không lối lên trời, không nẻo chui xuống đất, khiến chúng sợ bị diệt chủng, liền đua nhau quy hàng. Quan trọng nhất là chủ soái không mê muội, không lười nhác, thường luôn tỉnh táo mà thôi! Nếu mê muội, lười nhác thì chẳng những không diệt được giặc mà trái lại còn bị giặc diệt. Do vậy, người niệm Phật không biết nhiếp tâm thì càng niệm càng sanh vọng tưởng. Nếu nhiếp được tâm thì vọng niệm sẽ dần dần mỏng nhẹ, cho đến không còn nữa! Vì thế, nói:
Học đạo do như thủ cấm thành,
Trú phòng lục tặc, dạ tỉnh tỉnh,
Tướng quân chủ soái năng hành lệnh,
Bất động can qua định thái bình.

(Tạm dịch:
Học đạo dường như giữ cấm thành,
Ngày phòng sáu giặc, đêm thường tỉnh,
Tướng quân chủ soái nghiêm quân lệnh,
Chẳng dấy can qua, quyết thái bình)

4. Thư trả lời sư Hựu Chân và cư sĩ Giác Tam

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao. Lại nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc Tam Ma Địa, tư vi đệ nhất” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa (tức tam-muội), ấy là bậc nhất). Nói “khiến cho tâm, miệng, tai đều được rõ ràng” chính là pháp tắc nhiếp trọn sáu căn vậy (Tâm là Ý Căn, miệng là Thiệt Căn). Tâm và miệng niệm hợp cùng tai nghe thì mắt, mũi quyết định chẳng đến nỗi rong ruổi theo bên ngoài, thân cũng chẳng đến nỗi láo xược, phóng túng. Người đời nay niệm Phật phần nhiều đều chẳng chịu nỗ lực nên không có hiệu quả gì.
    Lại nữa, khi không niệm Phật, vọng tưởng tuy nhiều nhưng không cách nào biết được, chứ không phải là lúc không niệm thì không có vọng tưởng! Ví như đối với hư không trong nhà, dẫu mắt cực tốt cũng không thể thấy được bụi bặm. Nếu từ khe cửa sổ soi vào một tia nắng, sẽ thấy bụi bặm trong tia nắng chao lên đảo xuống không khi nào ngừng, khi ánh sáng chưa chiếu đến nơi, vẫn chẳng thấy có bụi bặm! Vì thế, biết rằng: Khi niệm Phật mà nhận biết có vọng tưởng thì đấy vẫn là cái hay của việc niệm Phật. Lúc không niệm Phật, hoàn toàn bị vùi lấp trong vọng tưởng cho nên không biết!
    Lại nữa, pháp Niệm Phật khẩn yếu nhất là có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hễ có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt đến nhất tâm bất loạn vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Nếu không có tín - nguyện, dẫu tâm không có vọng niệm thì vẫn chỉ là phước báo nhân thiên vì chẳng tương ứng với Phật. Do vậy, đương nhiên phải chú trọng nơi tín - nguyện cầu sanh Tây Phương. Thật sự có tín - nguyện, vọng sẽ tự hết. Nếu lúc bình thường có vọng tưởng quá mức, muốn đắc thần thông, được danh dự, được duyên pháp, đắc đạo v.v… hoàn toàn lấy vọng tưởng làm bản tâm của chính mình như vậy thì càng tinh tấn, dũng mãnh, những thứ vọng tưởng ấy càng nhiều càng lớn! Nếu chẳng giác chiếu để dứt trừ vĩnh viễn những vọng tưởng ấy thì sau này vẫn bị ma dựa phát cuồng, há nào phải chỉ có vọng tưởng mà thôi ư? Vì thế, phải miệt mài đoạn dứt những thứ vọng tưởng quá mức ấy.
    Thực hiện công khóa thì nên y theo chương trình của công khóa. Khi [đi kinh hành] niệm Phật xong trở về chỗ, niệm thêm [danh hiệu] hai vị Phật Thích Ca, Dược Sư cũng không ngại gì. Luận theo mặt lý thì lễ Phật trước khi chưa niệm chính là lễ Phật Thích Ca. Người đời phần nhiều xử sự theo tình cảm, không ai chẳng cầu tiêu tai, tăng tuổi thọ; vì thế, niệm thêm Phật Dược Sư. Thật ra, oai thần công đức của A Di Đà Phật bằng với oai thần công đức của mười phương ba đời hết thảy chư Phật, chứ không phải là niệm A Di Đà Phật chẳng thể tiêu tai, tăng tuổi thọ!

5. Thư trả lời cư sĩ Châu Đức Đại

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

Tịnh Độ Thập Yếu - Ngẫu Ích Đại Sư


TỊNH ĐỘ THẬP YẾU
Ngẫu Ích Đại Sư tuyển chọn


"Một sách là Tịnh Độ Thập Yếu, mỗi chữ đều là lời hướng dẫn trong đời Mạt Pháp, mỗi lời đều là gương báu của Liên Tông. Buồn khóc ứa lệ, mổ tim vẩy máu, xứng tánh phát huy, tùy căn cơ mà chỉ bày. Dẫu có ví là vớt người chết đuối, cứu kẻ đang bị lửa thiêu cũng không thể sánh ví được nỗi lòng thống thiết của bộ sách ấy. Bỏ cuốn sách này đi thì chánh tín không thể do đâu mà sanh, tà kiến không do đâu mà diệt! Trong cuốn sách ấy, quan trọng nhất là sách Yếu Giải. Sách này chính là hướng dẫn tốt lành trên đường hiểm để người sơ tâm nhập môn đoạn nghi sanh tín, chỉ bày nẻo ắt phải theo để về được bảo sở. Sách Tịnh Độ Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, sách Trực Chỉ của ngài Diệu Hiệp, thật là những bậc công thần đột phá kiên nhuệ nhất." 
(Ấn Quang Đại Sư)


1. Đệ Nhất Yếu
Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải (Ngẫu Ích Đại Sư)

2. Đệ Nhị Yếu
Vãng Sanh Tịnh Độ Sám Nguyện Nghi (Tuân Thức Đại Sư)
Vãng Sanh Tịnh Độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn (Tuân Thức Đại Sư)

3. Đệ Tam Yếu
– Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sơ Tâm Tam Muội Môn (Thành Thời Đại Sư)
– Thọ Trì Phật Thuyết A Di Đà Kinh Hạnh Nguyện Nghi (Thành Thời Đại Sư)
(chưa có bản dịch)

4. Đệ Tứ Yếu
Tịnh Độ Thập Nghi Luận (Trí Giả Đại Sư)

5. Đệ Ngũ Yếu
Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận (Phi Tích Đại Sư)

6. Đệ Lục Yếu
Tịnh Ðộ Hoặc Vấn (Thiên Như Đại Sư)

7. Đệ Thất Yếu
Tây Trai Tịnh Độ Thi (Phạm Kỳ Đại Sư)
(chưa tìm được bản dịch hoàn chỉnh)

8. Đệ Bát Yếu
Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ (Diệu Hiệp Đại Sư)

9. Đệ Cửu Yếu
Tịnh Độ Sinh Vô Sinh Luận (U Khê Đại Sư)
Tịnh Độ Pháp Ngữ (U Khê Đại Sư)

10. Đệ Thập Yếu
Tây Phương Hợp Luận (Viên Hoằng Đạo Cư Sĩ)


Lời Tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu
(Trích từ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên)

     Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong suốt cả một đời tuy là Đại, Tiểu, Đốn, Tạm bất đồng, Quyền, Thật, Thiên, Viên sai khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm khiến cho hết thảy chúng sanh đều theo đường về nhà, khôi phục tâm tánh mà thôi! Nhưng những pháp ấy đều cần tự lực tu trì để đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, hoàn toàn không được một sức nào khác nhiếp trì hòng chắc chắn được siêu phàm nhập thánh, thành tựu sở nguyện ngay trong đời này! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào sức thệ nguyện, nhiếp thọ của Phật và lòng thành tín nguyện niệm Phật của chính mình, bất luận đã chứng ngộ hay không; thậm chí kẻ chưa đoạn mảy may Phiền Hoặc nào vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực liền được vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Đã được vãng sanh, nếu là người đã chứng ngộ liền lên thẳng Thượng Phẩm, kẻ chưa đoạn Hoặc vẫn dự vào dòng thánh.

     Do vậy biết pháp môn Tịnh Độ rộng lớn không có gì ra ngoài được, như trời che khắp, dường đất chở đều, thống nhiếp các căn cơ trọn chẳng sót vật nào! Thật có thể nói là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn và độn căn. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được; dưới là phàm phu nghịch ác vẫn có thể dự vào trong đó. Thỏa thích bản hoài xuất thế của đức Như Lai, mở ra con đường chánh để chúng sanh trở về nguồn. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.

     Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, bỏ pháp này tu pháp khác thì chẳng những hàng phàm phu bộn bề phiền não chẳng có cách nào thoát ly sanh tử, mà ngay cả bậc thánh nhân Thập Địa cũng khó viên mãn Bồ Đề! Vì vậy, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh đều phát tâm Kim Cang hoằng truyền, tán dương, ngõ hầu lục đạo, tam thừa đều được vượt ngang ra khỏi tam giới, khôi phục lại tâm tánh vốn có. Trước thuật tại Thiên Trúc và Chấn Đán (Trung Hoa) [để tuyên giảng pháp môn này] nhiều khó thể kể xiết! Đại sư Ngẫu Ích chọn lấy chín tác phẩm khế hợp thời cơ nhất và bộ Di Đà Yếu Giải do chính mình trước tác, [gộp thành một bộ sách] đặt tên là Tịnh Độ Thập Yếu, muốn cho người học nhờ [xem] những tác phẩm này sẽ hiểu trọn vẹn chỗ trọng yếu trong sự độ sanh của đức Như Lai và nguyên do pháp này thống nhiếp khắp hết thảy các pháp.

     Đại Sư mất rồi, môn nhân là Thành Thời muốn [tác phẩm này] được lưu truyền trọn khắp pháp giới, nhưng sợ văn từ dài dòng, số lượng quyển quá lớn, chi phí lớn lao, khó thể [lưu truyền] rộng khắp được, bèn tóm lược câu chữ, đối với mỗi tác phẩm chỉ trình bày đại lược những ý chánh quan trọng, thêm vào những điều bình luận, quả thật hết sức lao tâm khổ tứ! Tiếc rằng Sư ỷ mình trí có thể chiếu soi trọn vẹn, đọc đến đâu, trích lược đến đấy, chẳng bỏ công tra duyệt lại, cứ cho khắc in ngay, đến nỗi lời văn nhiều chỗ mù mờ, lại thêm giọng điệu sai lầm, lời lẽ chẳng đạt ý vậy!

     Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), cư sĩ Từ Úy Như đến thăm Quang; do ông ta lo liệu việc khắc in Tạng kinh, tôi bèn cậy ông ta sưu tập, khắc in bản gốc [của bộ Tịnh Độ Thập Yếu]. Sau đấy, ông ta bèn khắc in hai tác phẩm là Di Đà Yếu Giải và Tây Phương Hiệp Luận. Nay đã có được nguyên bản đầy đủ, cư sĩ Lý Viên Tịnh tính tái bản theo đúng như hình thức sách Tịnh Độ Thập Yếu [đã được in] trước kia: Phàm mỗi một lời bình luận do sư Thành Thời đã viết đều chiếu theo đó sao lục, chỉ bổ sung những chỗ sư Thành Thời khiếm khuyết, hòng chẳng diệt mất sự cực trí của sư Thành Thời, soạn thành bốn quyển. Do những chỗ trích lược khác nhau bao nhiêu đó chỗ, cho nên phải sắp xếp lại thứ tự từng quyển. Trước kia, Tây Trai Thi, Niệm Phật Trực Chỉ thứ tự trước - sau bị đảo lộn, nay sắp xếp lại cho thích đáng; cuối mỗi quyển đều kèm theo những bài văn quan trọng và [những đoạn trích từ] Triệt Ngộ Ngữ Lục. Lại còn đem Vãng Sanh Luận Chú và Liên Hoa Thế Giới Thi gộp thành một quyển để làm phụ bản, tổng cộng là năm quyển, thảy đều phù hợp với lời văn, ý nghĩa và tông chỉ của sách Thập Yếu, hoàn toàn chẳng khác biệt. Giống như những hạt châu nơi cái lưới của Thiên Đế soi bóng lẫn nhau, khiến cho những người đọc biết sâu xa pháp môn Tịnh Độ chính là chỗ quy túc của hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu lộ từ pháp giới này, chẳng trở về pháp giới này!

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (4)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý

1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp
3. Hân cầu Cực Lạc
4. Vãng sinh tư lương

* Điều kiện để [vãng sinh] Tịnh Độ chính là ba tư lương, thứ nhất phải tin sâu không nghi ngờ, thứ hai phải có đại nguyện khẩn thiết, chúng ta trong một đời này chỉ có một cái nguyện vọng, chính là gặp A Di Đà Phật, sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta nhất tâm nhất ý niệm A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, thứ khác đều tạm thời đặt ở bên cạnh, không quan tâm đến nó, như vậy mới được.

* Triệt Ngộ Đại Sư nói: "Thật vì sinh tử, phát Bồ Đề Tâm, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật", mười sáu chữ này chúng ta phải đem nó ghi nhớ kỹ, thật vì sinh tử, không còn làm sinh tử luân hồi, bởi vì sinh tử luân hồi khổ không nói nổi.

* Pháp môn niệm Phật là nan tín chi pháp (pháp khó tin), khó khăn nhất chính là tại tín tâm, hạnh không khó. Nếu như có thể đầy đủ tin sâu, không nghi ngờ, tu học cái pháp môn này quyết định có thể thành tựu. Có tín mới có nguyện, nguyện ý cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu không có lòng tin, cho dù trên miệng nói nguyện ý muốn vãng sinh Tây Phương, trên thực tế tín tâm không đủ, có hoài nghi, cái nguyện này liền không thật. Cho nên phải tin sâu nguyện thiết.

* Thích Ca Mâu Ni Phật ở trên Kinh Vô Lượng Thọ đối với A Di Đà Phật tán thán, Thích Ca tán thán chính là đại biểu mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán, tán thán A Di Đà Phật "Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương" (Quang minh tôn quý nhất, là vua trong các vị Phật), tán thán đến cực điểm. Chúng ta nghe hết thảy chư Phật đối với A Di Đà Phật tán thán như vậy, tín tâm được kiến lập, nguyện tâm được kiến lập, hạnh tâm cũng được kiến lập, tin sâu nguyện thiết, vãng sinh liền có phần!

* Trong Đại Kinh (Kinh Vô Lượng Thọ) đưa ra tông chỉ niệm Phật tu hành, "phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm", phát Bồ Đề tâm chính là tín nguyện, nhất hướng chuyên niệm chính là chấp trì danh hiệu, hai câu này chính là ba món tư lương Tín Nguyện Hạnh mà tiểu bổn A Di Đà Kinh nói tới, ba điều này thiếu một thứ cũng không được.

* Cái gì gọi là Bồ Đề Tâm, Ngẫu Ích Đại Sư ở trong Yếu Giải nói hay lắm: "Nhất tâm chuyên chí cầu sinh Tịnh Độ, cái tâm ấy chính là Vô Thượng Bồ Đề Tâm". Chúng ta nhất tâm nhất ý chỉ cầu Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cầu gặp A Di Đà Phật, những thứ khác hết thảy buông xuống, quyết định không còn để ở trong lòng, người này chính là [đã] có đủ viên mãn Bồ Đề Tâm.

* Ngẫu Ích Đại Sư nói rất hay: "Đắc sanh dữ phủ, toàn do tín nguyện chi hữu vô; phẩm vị cao hạ, toàn do trì danh chi thâm thiển", có thể vãng sinh hay không quyết định tại tín nguyện có hay không, phẩm vị cao hay thấp quyết định ở công phu niệm Phật sâu hay cạn, niệm Phật có thể vãng sinh hay không quyết định tại tín nguyện, cho nên tin sâu nguyện thiết, dạng người này nhất định vãng sinh.

* Pháp môn niệm Phật mặc dù dễ dàng, đơn giản, nhưng là tín nguyện nhất định phải có đủ. Chúng ta có tín tâm phi thường thanh tịnh, có nguyện vọng mãnh liệt [muốn] vãng sinh thế giới Cực Lạc, cái lực lượng tín nguyện này nhất định phải vượt qua nghiệp lực, vậy liền quyết định vãng sinh.

* Tin sâu, chúng ta cũng phi thường muốn tin sâu, [nhưng] cái lòng tin này chính là sinh không nổi, nguyên nhân ở nơi nào? Đối với hai thế giới nhận thức không đủ rõ ràng, thấu triệt. Phải làm thế nào? Đọc kinh, đọc nhiều suy nghĩ nhiều, chúng ta đối với trạng huống của hai cái thế giới này chậm rãi liền rõ ràng, minh bạch. Phàm những người tín nguyện phù phù phiếm phiếm, đều là đối với Sa Bà cùng Cực Lạc không có quan sát minh bạch.

* Câu danh hiệu A Di Đà Phật này có đủ nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên. Thế nhưng là câu Phật hiệu này nhất định phải có đủ tín nguyện, mới có thể trở thành nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên. Nếu như không có tin sâu nguyện thiết, thiện căn, phước đức, nhân duyên trong câu Phật hiệu này liền ít đi, ít đi thì lực lượng liền không đủ, không có cách nào thúc đẩy chúng ta thành tựu vãng sinh.

* Một câu A Di Đà Phật này phải niệm thế nào? Một câu A Di Đà Phật này là dựa trên thâm tín thiết nguyện của chính mình mà niệm ra, câu Phật hiệu này mới tương ưng, đây là phương pháp tu hành, chánh hạnh đích thực của Tịnh Tông. Câu Phật hiệu này treo ở trên miệng, tin không sâu, nguyện không thiết, đây chẳng qua là cùng A Di Đà Phật kết cái thiện duyên, một đời này không thể vãng sinh.

* Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa Tiết Yếu nói: "Trì danh niệm phật, ám hợp đạo diệu, tức thị hành thâm Bát Nhã, vô dị niệm Thực Tướng, thị cố năng diệt trọng tội, năng tiêu trọng nghiệp" (Trì danh niệm Phật, thầm hợp đạo diệu, chính là hành thâm Bát Nhã, không khác niệm Thực Tướng, cho nên có thể diệt trọng tội, có thể tiêu trọng nghiệp), tội nghiệp nặng hơn nữa, câu Phật hiệu này đều có thể đem nó tiêu đến sạch sẽ, cho nên trì danh niệm Phật cái pháp môn này phi thường bất khả tư nghị.

* Trì danh niệm Phật chính là thiện căn trong thiện căn, chúng ta không có thiện căn, không sợ, niệm Phật chính là bồi dưỡng thiện căn, niệm được càng nhiều, thiện căn liền càng thâm hậu.

* Trì danh niệm Phật phải làm đến tâm như Phật, nguyện như Phật, giải như Phật, hạnh như Phật, thì "nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật". Niệm Phật phải chân chính niệm ra tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi của chúng ta, đây là tâm niệm Phật. Trì danh tuyệt đối không phải là "hữu khẩu vô tâm" (miệng niệm nhưng tâm không niệm), nhất định phải niệm niệm nguyện nguyện đều tương ứng với bốn mươi tám đại nguyện của A Di Đà Phật, bốn mươi tám đại nguyện tổng kết lại chính là niệm niệm vì cứu độ hết thảy chúng sinh, chính là trợ giúp hết thảy chúng sinh vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đây là tâm của Phật A Di Đà.

* Vãng sinh "phẩm vị cao hay thấp, toàn do trì danh sâu hay cạn", thế nào gọi là sâu, thế nào gọi là cạn? Tâm cùng miệng tương ưng gọi là sâu, tâm [cùng] miệng không tương ưng gọi là cạn. Trong miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm nghĩ sự tình khác, cái này chính là cạn, hữu khẩu vô tâm! Trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, tâm cùng miệng tương ưng, dạng này chính là sâu. Còn có một cái cách nói, chính là niệm cùng tín nguyện tương ưng, niệm niệm có đủ thâm tín thiết nguyện, cái niệm này liền sâu. Mặc dù niệm A Di Đà Phật, tin không sâu, nguyện cũng không thiết, cái niệm này liền cạn.

* "Chấp trì danh hiệu", cái "trì" này ý nghĩa là bảo trì, không gián đoạn. Cái "chấp" này chính là chấp trước, chấp trước một câu Phật hiệu "A Di Đà Phật", dùng một cái chấp trước này thay thế tất cả chấp trước, ta chỉ chấp trước một câu Phật hiệu này, những thứ khác hết thảy đều buông xuống. Cái pháp môn này diệu!

* Cổ nhân giảng tin sâu nguyện thiết, Tín Nguyện Hạnh, trong đó là nói rõ đã buông xuống, như vậy thì có thể vãng sinh. Nhưng đối với người hiện thời, mặc dù có tin sâu nguyện thiết, nhưng đối với thế gian này còn có dính mắc trong lòng không buông xuống được, như vậy thì chưa hẳn được vãng sinh. Cho nên nhất định phải nói nhiều thêm vài câu, chính là ngoài Tín Nguyện Hạnh ra, còn phải "buông xuống vạn duyên", có đủ hai cái điều kiện này, quyết định được [vãng] sinh.

5. Niệm Phật công phu
...

Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2017

Pháp Uyển Châu Lâm


Sách PDF: PHÁP UYỂN CHÂU LÂM - Quyển 1-33 | Quyển 34-66 | Quyển 67-100
(Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh)

"Sách Pháp Uyển Châu Lâm (một trăm quyển. Chùa Thiên Ninh ở Thường Châu phân thành ba mươi tập) bàn luận chi tiết về nhân quả, Lý - Sự cùng nêu, rành mạch phân minh. Đọc đến khiến người không lạnh mà rét buốt; dẫu ở trong nhà tối, phòng kín thường như đối trước Phật, trời, chẳng dám chớm một tí ác niệm. Thượng trung hạ căn đều được lợi ích, trọn chẳng đến nỗi lầm lẫn đường nẻo, chấp lý phế sự, rớt vào thói tệ thiên lệch, tà vạy, cuồng vọng."
(Ấn Quang Đại Sư)

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (3)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý

1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp

3. Hân cầu Cực Lạc

* A Di Đà Phật tại nhân địa phát bốn mươi tám đại nguyện, thành tựu Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới là lấy mười phương hết thảy chư Phật sát độ làm bản thiết kế, chọn lấy những ưu điểm, bỏ đi khuyết điểm, nó là tập hợp mười phương chư Phật sát độ viên mãn đại thành, Tây Phương Cực Lạc thế giới là [được hình thành] như thế đó.

* Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, nguyện nguyện đều là vì độ chúng sinh, nguyện nguyện dung nhiếp lẫn nhau. Bất kỳ một nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện, đều bao hàm bốn mươi bảy nguyện còn lại, vì thế nên cái nguyện đó mới viên mãn, cái nguyện đó mới chân thực. Cái nguyện này mới sản sinh lực lượng không thể nghĩ bàn, có thể phổ nhiếp pháp giới chúng sinh, cũng chính là nói [cái nguyện này] tương ưng với tâm tánh của hết thảy pháp giới chúng sinh.

* Tại thế giới Cực Lạc không có nhân duyên để chúng ta sinh phiền não, thế giới kia là "chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ" (các vị thượng thiện nhân nhóm họp một chỗ), thượng thiện là chỉ Đẳng Giác Bồ Tát, người mà chúng ta tiếp xúc là Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng Giác là như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc. Người sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm vãng sinh, đều có thể cùng những vị Đẳng Giác Bồ Tát này bình khởi bình tọa, thực là không thể nghĩ bàn.

* Tây Phương Cực Lạc thế giới rốt cuộc là có những điểm nào vượt qua hết thảy chư Phật sát độ? Thứ nhất mang nghiệp vãng sinh, thứ hai vãng sinh liền bất thoái, thứ ba sinh đến chỗ đó, quyết định một đời viên mãn thành Phật. Ba việc này trong hết thảy chư Phật sát độ là không có, chỉ có thế giới Cực Lạc có, cho nên gọi là pháp môn đặc biệt.

* Tây Phương thế giới xác thực là một thế giới phi thường kỳ diệu, nó cũng không giống với thế giới của mười phương chư Phật, bởi vì người vãng sinh cho dù là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới liền cùng Vô Lượng Quang Thọ với A Di Đà Phật. Phật là Vô Lượng Quang, người ấy cũng Vô Lượng Quang, Phật là Vô Lượng Thọ, người ấy cũng Vô Lượng Thọ.

* Hễ vãng sinh Tây Phương thế giới, dù cho là hạ phẩm hạ sinh, cũng viên chứng Tam Bất Thoái. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, Biệt Giáo Sơ Địa Bồ Tát, mới chứng Tam Bất Thoái, nhưng là không viên mãn. Ai mới viên mãn chứng đắc Tam Bất Thoái? Đẳng Giác Bồ Tát. Cho nên hạ phẩm hạ sinh viên chứng Tam Bất Thoái, cũng chính là người hạ phẩm hạ sinh tại Tây Phương Cực Lạc thế giới bằng với Đẳng Giác Bồ Tát, điều này chân thật là không thể nghĩ bàn, đây là nan tín chi pháp.

* Niệm Phật vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dù cho là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, đều là chứng quả. Chứng quả gì? Chứng quả Vô Thượng Bồ Đề. Một đời chứng đắc Phật quả cứu cánh viên mãn, không cần đời thứ hai. Thế giới Cực Lạc, Phật Vô Lượng Thọ, sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mỗi người đều là Vô Lượng Thọ, cho nên quyết định một đời thành Phật, bởi vậy pháp môn niệm Phật gọi là một đời thành tựu.

* Tây Phương Cực Lạc thế giới tứ độ, đó là bình đẳng, dù cho sinh đến thế giới Cực Lạc hạ hạ phẩm Đồng Cư Độ, chẳng những ngày ngày nghe A Di Đà Phật giảng kinh thuyết pháp, cũng có thể nhìn thấy Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, các ngài ở tại nơi nào? Tại Thực Báo Độ. Những Đại Bồ Tát ở Thực Báo Độ này cùng với hạ hạ phẩm Phàm Thánh Đồng Cư Độ cũng thường thường cùng một chỗ, cái duyên phận này khó được! Lão sư là chư Phật Như Lai, đồng học là chư Đại Bồ Tát, chúng ta thường thường cùng các ngài thân cận, tiến bộ rất nhanh, sẽ không lùi bước, chúng ta đi nơi nào mà tìm cái hoàn cảnh tu học này?

* Tại thế giới Cực Lạc, chúng ta ngồi ở nơi đó nghe A Di Đà Phật giảng kinh thuyết pháp, có thể phân vô lượng vô biên thân đến mười phương thế giới đi cúng dường chư Phật Như Lai, nghe Phật thuyết pháp. Dùng cái gì cúng dường? Hương hoa, trân bảo. Từ đâu tới? Từ trên tay biến hiện ra. Trên tay có thể biến ra vô lượng trân bảo cúng Phật, cúng Phật là tu phước, tại Phật bên đó nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Cho nên tại thế giới Cực Lạc tu hành thành Phật rất dễ dàng, rất nhanh chóng. Đây là duyên phận [mà] trong mười phương thế giới không có, thế giới Cực Lạc có đầy đủ.

* Trong hết thảy thế giới, phiền toái nhất chính là tình chấp, tình chấp rất khó đoạn! A Di Đà Phật đã nhìn ra, cho nên sinh đến thế giới Cực Lạc, chỗ đó không có phụ mẫu, sinh ở đâu? Trong hoa sen, hoa sen hoá sinh. A Di Đà Phật một chiêu này phi thường cao minh, khiến cho chúng ta tại Tây Phương Cực Lạc thế giới không có dính mắc về thân tình, tâm của chúng ta liền sẽ thanh tịnh, bình đẳng.

* Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ đổi một cái tử ma chân kim sắc thân. Tướng mạo trang nghiêm, cùng một dạng với tướng mạo của A Di Đà Phật, "Thân hữu vô lượng tướng, tướng hữu vô lượng hảo" (Thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo). Chúng ta hiện tại cái tướng này quá xấu xí, muốn đổi tướng tốt, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân thể này không cần nữa, vứt bỏ đi, vì thế đó là còn sống mà đi, quyết định không phải chết rồi mới đi. Cho nên pháp môn niệm Phật là pháp môn không già, pháp môn không bệnh, pháp môn không chết, chúng ta đi đâu mà tìm?

* Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh giảng, một người niệm Phật sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, người đó tại thế giới Cực Lạc tu đến minh tâm kiến tánh, tu đến khế nhập Thật Báo Trang Nghiêm Độ, cần bao nhiêu thời gian? Mười hai kiếp. Từ chúng ta thế giới này tu hành, muốn tu chứng đến đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, cần bao nhiêu thời gian? Vô lượng kiếp. Trong sát độ của chư Phật tu hành cần vô lượng kiếp, tại Tây Phương Cực Lạc thế giới mười hai kiếp, bạn xem thời gian này rút ngắn nhiều hay ít?

* A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện giảng được rất rõ ràng, sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đều làm A Duy Việt Trí Bồ Tát, chúng ta liền có năng lực cùng một dạng với Pháp Thân Bồ Tát, “thiên xứ kỳ cầu, thiên xứ ứng” (ngàn xứ khẩn cầu, ngàn xứ ứng). Chỗ nào chúng sinh có cảm, liền có thể đi nơi đó trợ giúp bọn họ phá mê khai ngộ, nên dùng thân gì để độ được, chúng ta liền có thể hiện thân đó, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong tất cả pháp môn đây là phương pháp ổn định nhất, hiệu quả lớn nhất, nhanh chóng nhất, mà lại quyết định có thể làm được.

4. Vãng sinh tư lương
...

Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (2)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý


1. Giác ngộ nhân sinh
2. Vô thượng diệu pháp

* Đường triều Thiện Đạo Đại Sư nói: "Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải", hết thảy chư Phật xuất hiện tại thế gian giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh chính là để khuyên mọi người niệm Phật cầu sinh thế giới Cực Lạc, chỉ vì mỗi một việc như vậy.

* Kinh Hoa Nghiêm đã nói: "Một tức hết thảy, hết thảy chính là một", "một" là cái gì? Một chính là A Di Đà Phật. Niệm một câu A Di Đà Phật, chính là niệm hết thảy chư Phật; Niệm A Di Đà Kinh, chính là niệm vô lượng vô biên kinh luận mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói. Một câu danh hiệu bao quát hết thảy kinh, hết thảy pháp môn, không có một cái nào lọt mất, nguyên lai công đức của danh hiệu là như vậy. Chúng ta có lý trí, có trí tuệ, mới có thể lựa chọn pháp môn cứu cánh liễu nghĩa đệ nhất này.

* Niệm Phật chẳng những là thiện trong thiện, cũng là phước trong phước, bởi vì câu Phật hiệu là vạn đức hồng danh, là tánh đức xưng hiệu, nhất tâm niệm Phật, có thể nói vô lượng hạnh môn của Bồ Tát hết thảy đều hàm nhiếp ở trong đó, chân chính là một tu hết thảy tu.

* Niệm A Di Đà Phật, chính là đem thiện căn của A Di Đà Phật, biến thành thiện căn của chính chúng ta; đem phước đức của A Di Đà Phật biến thành phước đức của chính chúng ta. A Di Đà Phật là nhiều đời nhiều kiếp tu thành, chúng ta niệm niệm dính vào khí phận của ngài, liền cùng ngài không hai không khác.

* Pháp môn niệm Phật này là được Phật đặc biệt gia trì, không giống với những pháp môn bình thường khác, cho nên cổ đại đức xưng là "môn dư đại đạo", cái "môn" đó chính là tám vạn bốn ngàn pháp môn, một con đường thành Phật đặc biệt, rộng lớn, nằm ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, gọi là môn dư đại đạo.

* Pháp môn niệm Phật chân thật là giản ước, tinh yếu, danh xứng với thực, người người có thể tu, người người có thể thành tựu, chỉ xem chính mình có chịu hay không, chỉ cần có thể tin, chịu phát nguyện, vô thượng Bồ Đề mỗi người đều có phần. Trên từ Đẳng Giác Bồ Tát, dưới tới địa ngục chúng sinh, không một ai là không độ, tam căn phổ bị, lợi độn toàn thu.

* A Di Đà Phật là dịch âm tiếng Phạn, ý nghĩa rất nhiều, dịch thành ý nghĩa theo tiếng Trung: "A" dịch là Vô, "Di Đà" dịch là Lượng, "Phật" là Trí, là Giác. Danh hiệu này chính là vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ. Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác là ai? Là chính mình. Cho nên nhìn thấy A Di Đà Phật liền nhắc nhở chính mình, ta cần phải mọi thứ đều giác, mọi thứ đều không mê, đây chính là A Di Đà Phật.

* Từ trên mặt lý mà giảng, A Di Đà Phật ý nghĩa là Vô Lượng Giác, chúng ta mặc dù chính mình chưa giác, nhưng là tâm cùng miệng tương ưng, niệm niệm Vô Lượng Giác, bất tri bất giác liền thật sự giác, thật sự là có lực lượng không thể nghĩ bàn. Câu Phật hiệu này không chỉ có là đức hiệu của Tây Phương Cực Lạc thế giới đạo sư, cũng là danh hiệu tự tánh của hết thảy chúng sinh. Niệm câu Phật hiệu này, là niệm toàn thể pháp giới, là niệm hết thảy chư Phật Bồ Tát, là niệm chân như bản tánh của chính mình.

* A Di Đà Phật là dịch âm từ tiếng Phạn, trong đó cũng có ý nghĩa là "Vô Lượng Thọ", cho nên Phật tại trong Kinh A Di Đà giới thiệu cho chúng ta, gọi là Vô Lượng Thọ cũng gọi là Vô Lượng Quang. Vô Lượng Quang Thọ chính là A Di Đà Phật dịch ý.

* Mặc dù nói "Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp", tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều có thể một đời thành Phật, vấn đề là phải có thể đoạn phiền não, Kiến Tư phiền não không đoạn, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cần chúng ta có thể phục được nghiệp liền có thể vãng sinh, Kiến Tư phiền não không đoạn cũng được. Phục là gì? Đem nó khống chế lại, tuy có nghiệp tập chủng tử, không cho nó khởi hiện hành. Cho nên pháp môn niệm Phật được hết thảy chư Phật tán thán, đạo lý chính là ở đây.

* Trong tất cả mọi pháp môn, pháp môn niệm Phật phương tiện nhất, chướng duyên của nó ít, chính là đi đứng nằm ngồi, hết thảy thời, hết thảy chỗ đều có thể dụng công. Không giống pháp môn khác, phải có hoàn cảnh điều kiện tu học nhất định, hoàn cảnh điều kiện không đủ liền rất phiền phức. Duy chỉ có pháp môn niệm Phật dễ dàng, cho nên gọi nó là Dị Hành đạo, xác thực là một pháp môn phương tiện nhất.

* Vô lượng pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều phải làm được vô trụ mới có thể đắc độ. Chúng ta nếu như làm không được, vậy cần phải chuyên môn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật có trụ còn có thể vãng sinh. Các pháp môn khác tâm nếu như có trụ, quyết định không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Chúng ta biết sự thật này, mới có thể lão thật niệm Phật, bởi vì ngoại trừ một môn này ra, còn lại đều không cứu nổi.

* Pháp môn niệm Phật là nhị lực pháp môn, phàm phu vãng sinh không phải dựa vào chính mình, phần nhiều là nhờ vào Phật lực gia trì, không chỉ có là A Di Đà Phật oai thần gia trì, mười phương ba đời tất cả chư Phật lực lượng thảy đều gia trì. Chúng ta nhất tâm xưng niệm cũng phải cầu Phật gia trì, Phật không gia trì, nhất tâm không dễ thành tựu, tâm không điên đảo càng phải cầu Phật gia trì. Chính chúng ta chỉ cần đầy đủ tin sâu nguyện thiết, y giáo phụng hành, còn lại hoàn toàn đều phải nhờ vào Phật lực.

* Người ngũ nghịch thập ác, vào lúc lâm chung đầu óc tỉnh táo, cũng gặp được thiện tri thức dạy hắn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, hắn lập tức liền tiếp nhận, không chút nghi ngờ, một lòng niệm Phật chuyên cầu Tịnh Độ, dạng này xác thực mười niệm hoặc là một niệm cũng đều có thể vãng sinh, điều này thực không thể nghĩ bàn.

* Vô Lượng Thọ Kinh là Tịnh Độ đệ nhất kinh, đem Tịnh Độ đạo lý, phương pháp, cảnh giới đều nói được rất kỹ càng. Trong đề kinh, "thanh tịnh bình đẳng giác", đây là mục tiêu mà Phật yêu cầu đối với tu hành của chúng ta, "Đại Thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm", đó là quả báo Tịnh Độ, từ đâu tới? Từ "thanh tịnh bình đẳng giác" tới, người tu Tịnh Độ, tiêu chuẩn chính là năm chữ này.

3. Hân cầu Cực Lạc

4. Vãng sinh tư lương
...

Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017

Hiện Đại Tu Hành Tiết Yếu (1)


HIỆN ĐẠI TU HÀNH TIẾT YẾU
(Những điểm quan trọng trong việc tu hành ở hiện đời)

Cung kính ghi chép từ các lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội cung kính chỉnh lý


Lời mở đầu
Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó được nghe nay đã nghe, khó sinh vào chính giữa đất nước nay đã được sinh, thiện hữu tri thức khó gặp nay đã được gặp. Hiện đời tuy may mắn gặp nhân duyên khó được này, nhưng chúng ta học Phật đã nhiều năm vẫn là phiền não không ngừng, gặp thuận cảnh khởi tâm tham, gặp nghịch cảnh sinh sân khuể. Chúng ta nhất định phải kiến lập tín tâm, khởi phát nguyện lực, kiên định chánh hạnh mới không uổng đời này.
Quyển sách này tập hợp chỉnh lý từ những lần diễn giảng của Thượng Tịnh Hạ Không lão pháp sư, trích lục tinh yếu công đức niệm Phật, mong rằng đại chúng có thể nhờ vào quyển sách này sinh khởi niệm Phật tín tâm, đột phá tu học chướng ngại, ắt sẽ được gặp lại nhau sau khi vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới ngay trong đời này!

1. Giác ngộ nhân sinh

* Ở cái thế gian này, cho dù có đem toàn bộ thế giới cho chúng ta, chúng ta lại có thể đạt được gì? Một hơi thở ra không hít trở lại, cùng một dạng cũng là đem không đi được. Thật sự là "Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân" (muôn thứ không mang được, chỉ có nghiệp theo mình), không có bất kỳ một vật gì chúng ta có thể mang đi được.

* Thế gian này không có thứ gì là chính mình, chúng ta xem cái này là chính mình, cái kia cũng là chính chúng ta, trên sự thực đều là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tất cả đều là giả. Thân còn không phải mình huống gì vật ngoài thân! Cho nên phải buông xuống, phải đem vọng tưởng, chấp trước xả bỏ. Vô thủy kiếp đến nay sinh tử căn bản là buông không xuống. Vì vậy tự mình nhất định phải giác ngộ, phải chân chính chịu buông xuống.

* Tục ngữ nói: "Sinh không mang đến, chết không mang đi". Đừng nghĩ rằng "Tôi còn chưa chết", kỳ thực chúng ta có thể bảo đảm được rằng mình vẫn có thể sống đến ngày mai sao? Không một ai dám nói bảo đảm được ta ngày mai vẫn tồn tại, bởi vì “Hoàng tuyền lộ thượng vô lão thiếu” (Đường đến suối vàng không phân biệt già hay trẻ)! Minh bạch chân tướng sự thật này, chúng ta liền phải nắm chắc mỗi một phút mệnh quang, phải nghiêm túc cố gắng đi học tập, đi tu hành.

* "Sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc", nếu như đối với hai câu này nhận thức rõ ràng, chúng ta liền giác ngộ. Biết sinh tử là chuyện lớn, sẽ đề khởi tâm cảnh giác. Biết vô thường tấn tốc, chúng ta liền biết quý trọng thời gian. Người tu hành quý báu nhất chính là quang âm, còn lại danh văn lợi dưỡng, tài sắc danh thực thùy, những vật này hết thảy buông xuống, chính là muốn nắm chắc quang âm tốt đẹp, đây gọi là chân chính giác ngộ.

* Kinh Kim Cang nói: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng", "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh", chúng ta phải thường thường đề khởi công phu quán chiếu, chúng ta đối với hết thảy sự, hết thảy vật tự nhiên là xem nhạt. Xem nhạt, đương nhiên chúng ta liền có thể buông xuống, có thể buông xuống, tâm địa tự nhiên thanh lương tự tại, phiền não liền ít đi. Phiền não ít, trí tuệ liền tăng trưởng, đây là đạo lý nhất định.

* Vĩnh Gia đại sư nói thật hay: “Mộng lý minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (trong mộng rõ ràng có sáu nẻo, giác rồi đại thiên cũng không còn), đại thiên là ba ngàn đại thiên thế giới, là lục đạo luân hồi. Chỉ cần giác ngộ liền không có, mê chấp nó liền có, mê rồi mới chấp trước, giác liền không chấp trước, giác liền triệt để buông xuống, không buông xuống được chính là mê, không có giác ngộ. Như vậy vì sao không buông xuống?

* Lo lắng, dính mắc, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta nhất định phải chân chính buông xuống, nhưng nói dễ, làm rất khó, nhất định phải chân chính giác ngộ mới chịu làm như vậy. Giác ngộ cái gì? Sinh tử luân hồi đáng sợ. Chúng ta nếu không buông xuống, liền vĩnh viễn sinh tử luân hồi. Sinh tử luân hồi, nhất định là đời sau không bằng đời này, chúng ta đời này tại nhân đạo trong lục đạo, đời sau đi nơi nào? Nhất định đọa tam ác đạo.

* Cổ nhân giảng: "Nhân mạng vô thường, thạch hỏa điện quang" (Mạng người vô thường như lửa xẹt từ đá, như ánh sáng từ tia chớp). Nhân mạng giống cái gì? Giống như tia chớp vậy, một sát na. Có thể giác ngộ, thừa dịp hiện tại thân thể còn khỏe mạnh, còn chưa già, còn không có bệnh, có thể buông xuống liền tận hết khả năng buông xuống, đem toàn bộ thời gian, tinh thần xử lý đại sự của mình, cái đại sự này chính là lão thật niệm Phật.

* Mỗi người cần phải chân chính giác ngộ, giác ngộ cái gì? Sinh tử là chuyện lớn, luân hồi đáng sợ, là thật sự kinh khủng, cho nên chúng ta phải có cái loại tâm cảnh giác này. Chúng ta cả đời này cái gì cũng đều không cầu, chỉ cầu liễu sinh tử, vượt thoát luân hồi. Dùng phương pháp gì mới có thể làm được? Chỉ có niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.

* Thiện Đạo đại sư làm bài kệ Tịnh Độ, trong đó viết:
Tiệm tiệm kê bì hạc phát
Khan khan hành bộ long chung

(Da mồi tóc bạc lần lần
Lụm cụm bước run mấy chốc)
...
Duy hữu kính lộ tu hành
Ðản niệm A Di Ðà Phật
(Duy có đường tắt tu hành
Chỉ niệm "A Di Đà Phật")

Là ý nói, con người chúng ta chung quy dần dần già yếu, làn da nhăn nheo, tóc bạc, lưng gù, đi lại từng bước chậm chạp, lụm cụm, lúc này liền phải nghĩ đến ngày tháng không còn nhiều. Cho dù hưởng thụ muôn vàn khoái lạc, sinh tử vô thường cuối cùng sẽ tới. Lúc này cần phải giác ngộ, chúng ta phải tu hành, bởi vì thời gian của chính mình đã không còn kịp rồi, cho nên phải tìm một con đường gần, một con đường đơn giản ổn định, đó chính là một lòng xưng niệm A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra, hết thảy đều buông xuống. Đây là vị tổ sư thứ hai của Tịnh Độ tông khuyến khích người thế gian.

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

Ấn Quang Đại Sư Pháp Ngữ Tinh Hoa


ẤN QUANG ĐẠI SƯ PHÁP NGỮ TINH HOA
(Tịnh Không Pháp Sư tuyển chọn)
Nguồn: http://www.amtb.tw/pdf/yg01.pdf

* Thế gian biến loạn do đâu? Nói gọn một lời: Do tâm tham - sân - si của chúng sanh tạo nên mà thôi. Tâm tham thuận theo sự hưởng thụ vật chất càng tăng trưởng mãnh liệt, hễ có chút gì chẳng toại ý liền ganh đua ngay. Nếu vẫn chẳng toại ý liền có công kích, chiếm đoạt, đấu đá khiến cho tử vong, tai nạn đi theo. [Bởi đó] dịch lệ đói kém theo đó [xảy ra], hết thảy tai họa theo đó [phát khởi]. Lửa sân hừng hực, cả thế giới cháy sạch thành tro.

* Chỉ mình đức Như Lai ta xiển dương sự thật Khổ, Không để trị lòng tham của chúng sanh, hoằng dương tông chỉ từ bi để trị lòng sân của chúng sanh.

* Ngài lại dạy pháp môn Tịnh Ðộ để chỉ dạy chúng sanh con đường lìa khổ hưởng vui, phương tiện vượt ngang ra khỏi tam giới.

* Là Phật tử, tin vào thể tánh bình đẳng của pháp giới, hiểu rõ tướng trạng nhân - quả, khổ - vui, biết công dụng tự - tha (ta - người), cảm - ứng, khởi vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, ngày nào nỗi khổ của chúng sanh chưa trừ thì ngày đó trách nhiệm của kẻ thất phu chưa tận, nên trong ngày ấy, các sự nghiệp thỉnh pháp, tùy học, sám hối, cúng dường chưa thể ngưng nghỉ được.

* Cần biết nhân quả không hư dối, họa phước đều là tự mình gây nên. Nghèo, bệnh, chết yểu, lao ngục, đều do biệt nghiệp. Thủy, hạn, đao binh lại do cộng nghiệp. Nghiệp chín muồi thì họa đến, không thể may mắn tránh khỏi.

* Muốn cầu được phước tránh họa ắt trước tiên phải nỗ lực đoạn ác tu thiện. Tùy thời, tùy chỗ tự mình cố gắng làm, lại khuyên bảo mọi người làm theo. Kiêng giết, ăn chay, sùng Phật, tiếc phước (quý trọng đồ vật, sử dụng tiết kiệm, tự hưởng thụ thì ít mà giúp cho người khác thì nhiều), hoằng pháp lợi sinh, thường niệm thánh hiệu Quán Âm vì chúng sinh hồi hướng tiêu tai giải kiếp, [được như vậy] thì người và mình cùng được lợi, tạo đức vô cùng, thu được phước cũng rộng lớn vậy.

* Mục đích của pháp hội lần này là hộ quốc tức tai, nhưng làm sao mới đạt được mục đích ấy? Tôi cho rằng phương pháp căn bản là Niệm Phật vì sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu ai nấy đều niệm Phật thì sẽ xoay chuyển được nghiệp này. Nếu chỉ có một ít người niệm Phật thì [nghiệp ấy] cũng có thể giảm nhẹ.

* Pháp môn Niệm Phật tuy là vì cầu sanh Tịnh Ðộ, liễu thoát sanh tử mà lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp chướng của nó quả thật cũng cực kỳ lớn lao.

* Người chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ngăn dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Cần nhất là phải hiểu rõ nhân quả, tự hành, dạy người [hành].

* Trong thế gian, người tốt hoàn toàn chẳng biến đổi rất ít, kẻ xấu hoàn toàn chẳng biến đổi cũng rất ít; đa số là kẻ lúc thượng, lúc hạ, khi tốt, khi xấu, cho nên giáo hóa là điều khẩn yếu nhất vậy.

* Chỉ cần ra sức giáo hóa thì sẽ có thể khiến cho con người đổi ác theo lành, buông dao đồ tể, ngay lập tức thành Phật chẳng sót một ai! Chỉ là do nơi con người tin tưởng, nghĩ nhớ, tận lực mà hành đấy thôi.

* Người niệm Phật cần phải chú ý giáo dục con cái mình trở thành người tốt, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Nếu ai cũng làm được như thế thì tai nạn tự tiêu, đất nước cũng tự được gìn giữ, bảo vệ!

* Chân lý mầu nhiệm căn bản của pháp môn Niệm Phật nằm trong ba kinh Tịnh Ðộ, nhưng theo như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt quy hướng Cực Lạc. Thật là pháp môn Tổng Trì trên thành Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sanh, thành thỉ, thành chung của mười phương tam thế hết thảy chư Phật. Vì thế, [pháp môn này] được chín giới cùng hướng về, mười phương chung tán thán, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết.

* Ăn chay sẽ vun bồi tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi cơ duyên giết hại.

* Người tu Tịnh Ðộ đã sanh về Tây Phương liền liễu sanh tử thì cũng là “tức thân thành Phật”.

* Ai nấy giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt thì tự nhiên quốc gia được bảo vệ, tai ương tự tiêu vậy.

Thứ Ba, 14 tháng 11, 2017

Thường Lễ Cử Yếu (Lễ Phép Hàng Ngày)


TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 7

THƯỜNG LỄ CỬ YẾU
(Lễ Phép Hàng Ngày)
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam biên soạn

I. Ở NHÀ
1. Phận làm con phải dậy sớm, áo quần mền gối nên tự mình phải
xếp lại gọn gàn, sớm tối tất định phải biết cần kiệm.
2. Phận làm con, khi muốn ngồi thì chẳng được ngồi ghế chính giữa,
lúc đi chẳng được đi chen ở chính giữa những người lớn.
3. Phận làm con, lúc đi ra cần thưa bẩm, lúc trở về cần trình thưa.
4. Người lớn trao cho vật gì, cần phải dùng hai tay để tiếp lấy.
5. Đi chung với người lớn nên đi chậm rãi phía sau, chẳng được
dành đi gấp gáp ở trước người lớn.
6. Khi người lớn đứng mà mình nhỏ thì chẳng được ngồi. Đang ngồi
thấy người lớn đến thì phải đứng dậy.
7. Chẳng được ở trước mặt người lớn đang ngồi mà đi đủng đỉnh
qua lại.
8. Phàm khi đứng thì chẳng được đứng ở ngay giữa cửa, khi bước
qua cửa thì chẳng được đạp chân lên ngạch cửa.
9. Lúc đứng thì chẳng nên đứng thọt một chân, khi ngồi chẳng được
ngồi nghiêng ngữa duỗi chân như cái xẩy. Lúc nằm ngủ chẳng
nên nằm ngữa hay nằm sấp, mà nên nằm nghiêng hông bên phải,
mà nên nằm cong người lại như cây cung.
10. Ngồi ăn chung bàn chẳng được sắp đặt thức ăn ngon để dành
riêng ăn một mình.
11. Chẳng được bươi móc lựa chọn đồ ăn ngon dỡ.
12. Trong lúc ăn chẳng nên than thở, chẳng nên răn dạy trách mắng
con em ngay ở trên bàn cơm.

II. Ở TRƯỜNG
1. Lúc kéo cờ, hạ cờ cùng xướng ca bài quốc kỳ, hiệu ca, nên đứng
nghiêm trang để biểu tỏ sự cung kính.
2. Lúc thầy cô giáo lên lớp và xuống lớp, cần phải đứng lên để cung
đón và tiễn đưa.
3. Khi hướng về thầy cô giáo có việc muốn thưa hỏi thì cần phải
đứng dậy.
4. Lúc đi đường gặp thầy cô giáo, nên dừng lại bên đường đứng
nghiêm trang để bày tỏ sự cung kính.
5. Lúc nghe giảng, nên ngồi ngay hoặc đứng thẳng, chẳng được ngồi
chống cằm, ngoẹo cổ, cong lưng, hay vểnh chân lên.
6. Lúc kiểm tra thi cử, chẳng được giao đầu kề tai, hoặc dòm trái ngó
phải.
7. Yên phận mà học tập nhưng nên gần gũi với thầy cô giáo. Vui
chung với bạn nhưng phải đặt lòng tin nơi đạo.

III. XỬ THẾ
1. Chẳng nên vạch bày chỉ thẳng ra cái yếu kém của người. Chẳng
được phô bày cái hay tốt của mình.
2. Những chuyện ở trong gia đình mình, không thể đem đi nói cho
người ngoài biết.
3. Miệng là cửa của họa phước, phàm có lời muốn nói, cần phải có sự
suy gẫm đắn đo trước rồi mới nói.
4. Khi thấy người thất ý, chớ nên nói những việc đắc ý của mình.
Gặp người lớn tuổi, chớ nên nói lời bi ai chết chóc.
5. Đối với người sơ giao mới quen, không thể thổ lộ cho họ những
lời sâu kín. Sau khi tuyệt giao rồi cũng chẳng nên đối kia nói
những lời khó nghe.
6. Chẳng nên làm nhục người, chẳng nên lấy người ra làm trò đùa để
mua vui.
7. Khi đứng trước người tàn tật, càng nên đặc biệt biểu tỏ sự cung
kính.
8. Đối với những người sống bằng sức lao động khổ nhọc như gồng
gánh, bán hàng rong, chớ nên lấn ép tiện nghi của họ.
9. Thi ân cho người thì nên quên bỏ, thọ nhận ân của người cần phải
báo đáp. Lỡ đắc tội với người thì nên đến xin hòa giải. Người lỡ
đắc tội với mình thì nên khoan thứ.
10. Đối với người lành thì nên tự thân đến để gần gũi, phải có lòng
kính tin lâu dài. Đối với hạng người xấu ác thì tự mình cũng nên
cung kính nhưng cần phải lánh xa.
11. Gặp bất cứ chuyện gì cũng đều phải giữ sự trầm tĩnh, đối với
những việc tự mình không thể làm được thì chớ nên vọng dối
rằng mình có thể.
12. Đi qua vườn dưa chớ nên ngồi xuống cột giầy, đứng dưới cây
mận thì chớ nên đưa tay chỉnh sửa nón mũ.
13. Phàm sử xự việc gì cũng phải hợp với lý trí, không thể nghiêng
nặng cảm tình.
14. Cái mình không muốn, chớ đem cho người khác.
15. Phàm cần cầu người khác dạy bảo việc gì, tất cần phải đến bên
cửa để thưa hỏi.

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Bách Quá Cách


TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 6

BÁCH QUÁ CÁCH
(Bảng ghi 100 điều lỗi, dùng để tự xét lỗi hàng ngày)

1. Sinh hoạt hàng ngày không bình thường.
2. Trang phục, nghi dung không chỉnh tề, sạch sẽ.
3. Tùy tiện khạc nhổ, vứt rác bừa bãi, vừa đi vừa ăn.
4. Thấy rác vứt bừa trên đất mà chưa thể tiện tay nhặt lên.
5. Bản thân hoặc nhà ở bẩn thỉu, lộn xộn, chưa thay đổi thói quen không sạch sẽ.
6. Còn có thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu, nhai trầu ...
7. Không tuân thủ trật tự công cộng, lái xe không tuân thủ luật giao thông.
8. Ra vào những nơi không đứng đắn.
9. Công tác không tận hết bổn phận, không có lòng kính trọng nghề nghiệp.
10. Sinh hoạt không có tinh thần phấn chấn, công việc hoặc tu học hiệu suất kém.
11. Không hòa thuận với người, không có tinh thần đoàn đội.
12. Khi gặp mặt hàng xóm, đồng nghiệp hoặc người quen biết chưa thể mỉm cười chào hỏi.
13. Chưa thể thuận hảo với người thân, hoà hợp với láng giềng, trông coi giúp đỡ lẫn nhau.
14. Gặp người tàn tật, người già, trẻ em chưa thể giúp đỡ.
15. Bình thường thích xem TV, báo chí, tạp chí ...
16. Xem phim, ảnh, sách báo... có nội dung sắc tình, thân tâm phạm tà dâm.
17. Nam nữ qua lại không bình thường.
18. Ngày hôm qua mắc lỗi mà hôm nay chưa sửa, tái phạm tập khí xấu.
19. Giết hại hoặc tổn thương chúng sinh hữu tình.
20. Tham cầu hưởng thụ ăn, mặc, ở, đi lại.
21. Trộm cắp hoặc lấy đi bất kỳ vật gì của người khác mà chưa được đồng ý.
22. Lục trai, thập trai, ngày đản sinh của Phật, Bồ Tát mà chưa thể ăn chay, đoạn dâm.
23. Bữa sáng bình thường chưa thể ăn chay.
24. Lãng phí ngũ cốc hoặc đồ ăn.
25. Không tiếc phước, sinh hoạt xa xỉ, lãng phí.
26. Gặp hình tượng Phật, Bồ Tát hoặc tăng chúng mà chưa khởi tâm thành kính hỏi thăm hoặc đảnh lễ.
27. Đối với cha mẹ không hiếu thuận (để cha mẹ lo lắng hoặc nổi giận)
28. Đối với sư trưởng không cung kính, đối với anh em, bạn bè không trung tín.
29. Đối với người nhà hoặc giữa vợ chồng với nhau còn có chỗ chưa hòa mục.
30. Đối với người không chân thành, thái độ cống cao ngã mạn.
31. Đối nhân xử thế không thành tín hoặc không giữ lới hứa với người.
32. Đối nhân xử thế còn thích chiếm lợi của người khác.
33. Đối nhân xử thế còn sợ người khác chiếm lợi của mình hoặc còn so đo tính toán thiệt hơn.
34. Đối nhân xử thế, học Phật tu hành còn có tâm hạnh phan duyên.
35. Đối nhân xử thế còn có tâm nghi kỵ, hoài nghi, tật đố.
36. Công khóa sáng tối chưa thể đúng thời hoàn thành viên mãn.
37. Niệm Phật chín lần trong ngày (Thập Niệm Pháp) chưa thực hiện được.
38. Bình thời chưa thể nắm lấy thời gian tu học, để thời giờ luống qua vô ích.
39. Tu học Phật pháp tâm bất chuyên, niệm bất nhất.
40. Học Phật tu hành giải đãi không bền chí, hoặc khởi tâm thoái lui, e sợ.
41. Gặp duyên đáng nên làm mà chưa làm, đáng nên xả mà chưa xả.
42. Giúp đỡ người khác không có tinh thần dũng cảm tiến tới.
43. Giúp người làm chuyện sai trái; thấy người lo lắng kinh sợ mà không an ủi.
44. Chúng sinh cùng chánh pháp hữu duyên mà chưa tích cực dẫn đạo.
45. Làm kinh doanh dùng thủ đoạn, phương pháp không chính đáng để mưu cầu lợi ích.
46. Có hành vi cùng tâm thái không làm mà hưởng như đầu cơ, đánh bạc, làm việc phi pháp, không làm ăn chân chính ...
47. Ngôn ngữ, động tác không đoan chính, thô tục bất nhã.
48. Miệng nói lời thô bạo, xấu xa, ô uế.
49. Miệng nói lời lỗ mãng, thái độ nói chuyện không ổn trọng.
50. Dùng lời hư giả không thật lừa gạt người khác.

Chủ Nhật, 12 tháng 11, 2017

Luật Yếu Tiết Lục - Quyển Hạ

TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 5

LUẬT YẾU TIẾT LỤC
Quyển Hạ

Trong tâm chứa đức sư tử,
Ngoài thân hiện oai tượng vương.

1) Kinh Hoa Nghiêm nói: giữ gìn trọn đủ phép dạy oai nghi, hay khiến ngôi Tam-bảo chẳng đoạn, phải vậy.

2) Đời mạt-pháp tình người hay sanh tâm biếng nhác, cho nên nghe nhiều thời sanh tâm chán nản, vì thế nên bớt bỏ văn nhiều mà dùng câu tóm gọn cho dễ người học và đọc.

3) Tạp A-hàm kinh nói: “Phật bảo các tỳ-kheo, nên giữ lòng cung kính, thường nhiếp buộc tâm, thường thận trọng kinh sợ. nếu không cung kính, chẳng nhiếp buộc tâm, chẳng thận trọng lo sợ, mà muốn làm cho oai nghi được đầy đủ quyết không thể được. Không đủ oai nghi, muốn cho học pháp được viên mãn quyết không thể được. Học pháp chẳng viên mãn mà muốn khiến cho ngũ phần pháp thân được đầy đủ quyết không thể được. ngũ phần pháp thân chẳng đầy đủ mà muốn đạt đến vô dư Niết-bàn quyết không thể được.

4) Trong Đại Luật dạy: phàm người xuất gia, chỗ có nói năng đều phải nói lời có lợi ích, chẳng nên riêng giận và bàn luận việc người. Trong Luận nói: bằng đến nhà thế gian, nói tội lỗi của tỳ-kheo thời người thế gian kia, đối trong phật-pháp, đã không tâm tín kính lại còn gây tội hủy báng thêm gốc khổ cho họ. Nếu ta nói tội lỗi thật ra lại là làm hư mất pháp thân của ta vậy.

5) Luật dạy: “đệ tử gặp hòa-thượng nên đầy đủ bốn tâm: (1) thân ái ; (2) kính thuận ; (3) úy nan (sợ khó) ; (4) tôn trọng. Phải khéo phụng dưỡng và tiếp nhận sự truyền thừa khiến cho chánh pháp được cửu trụ, lợi ích càng được tăng trưởng rộng lớn.

6) Thiên Thành Phạm nói: sa-di ở với Thầy thường có tâm kỉnh sợ, thuận theo ý thầy, thường biết xấu hổ lo đền 4 ân, cứu giúp 3 cõi.

7) Thầy là người làm khuôn mẫu dạy chúng sanh trong 3 cõi, thế Phật diễn nói chánh pháp, sanh giới thân cho ta, nuôi huệ mạng cho ta, nên ta phải kính trọng coi cũng như Phật.

8) Thầy tọa thiền chẳng lên làm lễ, thầy kinh hành chẳng nên làm lễ, thầy ăn cơm, thầy thuyết kinh, thầy đánh răng, thầy tắm rửa, thầy ngủ nghỉ, v.v… đều không nên làm lễ. Thầy đóng cửa chẳng nên làm lễ ngoài cửa. Muốn vào cửa lễ lạy, nên khảy móng tay ba lần (gõ nhẹ lên cửa 3 lần khiến cho thầy biết). Thầy không ưng thuận thì nên đi.

9) Hầu thầy chẳng được đứng trước mặt, chẳng được đứng chỗ cao, chẳng đặng quá xa, phải đứng sao để thầy nói nhỏ mình nghe được khỏi phí sức thầy.

10) Bằng thưa hỏi câu chuyện Phật pháp, nên y áo chỉnh tề lễ bái, quỳ gối chắp tay mà thưa hỏi. Thầy có lời dạy bảo thì phải lắng lòng nghe kỹ, in sâu vào óc.

Luật Yếu Tiết Lục - Quyển Thượng

TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 5

LUẬT YẾU TIẾT LỤC
Quyển Thượng

Khí thanh cao như sao sáng trời,
Oai nghiêm tịnh dường gió tan mây

1) Phàm phu từ vô thủy kiếp đến nay, bị màn vô minh che lấp chơn tánh, nên khởi các vọng tưởng, vin theo ngoại cảnh lục trần, lung tình nhiễm theo năm món dục ở thế gian. Đem thân khẩu ý tạo nhiều lỗi lầm, đọa lạc vào ba đường ác, luân hồi trong sáu nẻo, không mong có ngày được ra khỏi.

2) Sa-di lúc mới phát tâm xuất gia, vâng giữ 10 giới, siêng năng sách tấn tu hành, đoạn trừ phiền não hoặc-tập để mà cầu chứng được Niết-bàn diệu quả.

3) Giới là răn cấm, Luật là phép tắc. Phòng ngừa điều quấy, ngăn dứt điều ác nên nói là giới. Xử đoán nặng nhẹ, lúc nào nên khai duyên hay cấm chỉ mà khéo giữ cho đúng là trì hay phạm nên nói là luật.

4) 10 giới xác thật là thềm thang để vượt xuất thế gian, là cánh cửa đi vào Niết-bàn vậy.

5) Do bệnh của chúng sanh chẳng phải một, nên phương thuốc được chia ra thành nhiều toa.

6) Luật chế tỳ-kheo, năm hạ về trước ròng chuyên rành về giới luật. Cần phải hiểu rỏ thế nào là trì, phạm, biện rỏ việc của tỳ-kheo rồi thì về sau mới được phép học tập kinh luận. Người thời nay học hỏi bỏ qua thứ lớp, nên chỗ hành trì đã mất đi thứ tự thì không do đâu mà được nhập đạo.

7) Khinh giới chính là toàn tự khinh mình; hủy bỏ luật lại trở thành chính tự hủy mình vậy. Ôi! tình vọng dễ quen huân tập, cái tột cùng của đạo khó nghe, những bực tột chứng siêu quần trong vạn người khó có một.

8) Kẻ ngu không có con mắt huệ, chẳng biết rõ phải quấy, cuồng vọng tà kiến cố chấp, chẳng biết tuân theo thứ lớp mà học.

9) Phật tạng kinh nói: “trước chẳng chịu học tiểu thừa, sau rồi mới học đại thừa, như vậy chẳng phải là đệ tử Phật.”

10) Giới chính là phao nổi để vượt qua biển khổ, là chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân, cho nên cần phải cẩn thận, chớ để có chổ tơ hào khuyết phạm.

Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh (trích lục 39 điều)

TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 3

PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO KINH

1. Dĩ chủng chủng nhu nhuyễn ngôn từ, vị thuyết pháp yếu, linh kỳ hoan hỷ.
(Dùng các lời lẽ mềm mỏng nói pháp yếu khiến họ hoan hỷ)

2. Kiến tại gia, xuất gia Bồ Tát thừa nhân, thường sanh tín kính, khởi giáo sư tưởng.
(Thấy người thuộc Bồ Tát thừa dù là tại gia, hay là xuất gia, thường sanh lòng tin kính, tưởng như thầy dạy)

3. Bất cầu tha quá thất
(Chớ tìm cầu lỗi người)

4. Bất cử nhân tội
(Đừng cử tội người)

5. Ly thô ngữ, xan lận
(Lìa lời thô, keo bẩn)

6. Đương xả ư giải đãi
(Hãy bỏ rời giải đãi)

7. Viễn ly chư hội náo
(Xa lìa các ồn náo)

8. Tịch tĩnh, thường tri túc
(Tịch tĩnh, thường biết đủ)

9. Bất trước danh văn, lợi dưỡng, quả báo.
(Chẳng chấp vào danh tiếng, lợi dưỡng, quả báo)

10. Thường vị chúng sanh, quảng tuyên chánh pháp.
(Thường vì chúng sanh rộng nói chánh pháp)

11. Trụ thanh tịnh hạnh, sanh giác ngộ tâm.
(Trụ hạnh thanh tịnh, sanh tâm giác ngộ)

12. Dĩ thiểu công dụng, thiện năng lợi ích vô lượng chúng sanh.
(Dùng ít công sức mà khéo có thể lợi ích vô lượng chúng sanh)

13. Phát khởi tinh tấn, phổ hộ chánh pháp.
(Phát khởi tinh tấn, hộ trì hết thảy chánh pháp)

14. Nhất thiết hạnh trung, tùy thuận nhi trụ.
(Tùy thuận trụ trong hết thảy các hạnh)

15. Hộ trì chánh pháp, bất tích thân mạng.
(Hộ trì chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng)

16. Thường cần tinh tấn, bất cầu lợi dưỡng.
(Thường siêng tinh tấn, chẳng cầu lợi dưỡng)

17. Ư tứ chúng trung, tuyên thuyết chánh pháp.
(Ở trong tứ chúng, tuyên nói chánh pháp)

18. Thiện nhập nhất thiết chúng sanh tâm hạnh.
(Khéo vào trong tâm hạnh của hết thảy chúng sanh)

19. Tâm ý điều nhu, thường hoài từ mẫn.
(Tâm ý nhu hòa, thường ôm lòng từ mẫn)

20. Ư nhất thiết pháp, phát sanh thắng nhẫn, vô chấp trước tâm.
(Đối với hết thảy pháp, phát sanh tâm nhẫn thù thắng, không tâm chấp trước)

21. Bất tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tịnh ý lạc tâm.
(Chẳng tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tâm giữ ý lạc thanh tịnh)

22. Cầu Phật chủng trí, ư nhất thiết thời, vô vong thất tâm.
(Cầu Phật chủng trí, trong hết thảy thời, tâm chẳng quên mất)

23. Ư chư chúng sanh, tôn trọng, cung kính, vô hạ liệt tâm.
(Đối với các chúng sanh tôn trọng, cung kính, không tâm hèn kém)

24. Bất trước thế luận, ư Bồ Đề phần, sanh quyết định tâm.
(Chẳng dính mắc thế luận, sanh tâm quyết định nơi Bồ Đề phần)

25. Chủng chư thiện căn, vô hữu tạp nhiễm, thanh tịnh chi tâm.
(Trồng các căn lành, tâm thanh tịnh chẳng có tạp nhiễm)

26. Thanh tịnh thù thắng nghiệp, ái nhạo thường tu tập.
(Nghiệp thanh tịnh thù thắng, yêu thích thường tu tập)

27. Đương xả hạ liệt nghiệp, ưng cầu thắng thượng pháp.
(Nên bỏ nghiệp hèn kém, nên cầu pháp thắng thượng)

28. Độc tụng, tu hành, vị nhân diễn thuyết.
(Đọc tụng, tu hành, vì người khác diễn nói)

29. Ư nhất cần tu thiền định Bồ Tát, diệc đương thân cận, cúng dường, thừa sự.
(Với một Bồ Tát tu thiền định, cũng phải nên thân cận, cúng dường, thừa sự)

30. Ư trí huệ trung, đương cần tu tập.
(Hãy nên siêng tu tập nơi trí huệ)

31. Hý luận, tránh luận xứ, đa khởi chư phiền não, trí giả ưng viễn ly.
(Chỗ hý luận, tranh luận, khởi nhiều các phiền não, người trí nên xa lìa)

32. Vị cầu vô thượng đạo, văn pháp vô yểm túc.
(Để cầu đạo vô thượng, nghe pháp không chán đủ)

33. Thường xả nhất thiết, phi pháp chi hý luận.
(Thường bỏ hết thảy, những hý luận phi pháp)

34. Bất ưng kiến nhân quá, tự vị tối tôn thắng.
(Chẳng nên thấy lỗi người, tự bảo tôn thắng nhất)

35. Kiêu tứ, phóng dật bổn. Mạc khinh hạ liệt nhân.
(Kiêu tứ: gốc phóng dật. Chớ khinh kẻ kém hèn)

36. Giác ngộ sanh tàm quý, an trụ tinh tấn lực.

(Giác ngộ sanh hổ thẹn, an trụ sức tinh tấn)

37. Ư chư chúng sanh, khởi ư đại từ, vô tổn hại tâm.
(Đối với các chúng sanh, khởi tâm đại từ, không tổn hại)

38. Sở hành tội nghiệp tàm quý phát lộ.
(Tội nghiệp trót làm hổ thẹn bày tỏ)

39. Cần tu nhẫn nhục hạnh, đương trụ ư nhẫn nhục.
(Siêng tu hạnh nhẫn nhục, nên trụ trong nhẫn nhục)

(Ghi chú: Nguyên bản có 45 câu, nhưng vì một số câu không có trong kinh hoặc bị trùng lặp nên ở đây lược bớt)

>> Xem tiếp phần 4: Tịnh Nghiệp Học Nhân Tu Hành Ngũ Đại Khoa Mục
<< Xem phần trước: Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh (trích lục 62 điều)

Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh (trích lục 62 điều)


TỊNH TÔNG ĐỒNG HỌC TU HÀNH THỦ TẮC
(Quy tắc tu hành của đồng học Tịnh Tông)
Phần 2

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ KINH

1. Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo.
(Tâm thường trụ chắc nơi đạo độ thế)

2. Vi chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu.
(Vì các thứ loại, làm bạn không thỉnh)

3. Vu chư chúng sinh, thị nhược tự kỷ.
(Với các chúng sinh, xem như chính mình)

4. Bất kế chúng khổ.
(Không nề các khổ)

5. Thiểu dục tri túc.
(Ít muốn biết đủ)

6. Ư chư hữu tình, thường hoài từ nhẫn.
(Với các hữu tình thường mang lòng từ nhẫn)

7. Hòa nhan ái ngữ, khuyến dụ sách tấn.
(Vẻ mặt nhu hòa, lời nói dịu dàng, khuyến dụ sách tấn)

8. Cung kính tam bảo.

9. Phụng sự sư trưởng.

10. Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá.
(Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người)

11. Thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi.
(Khéo giữ thân nghiệp, không mất oai nghi)

12. Thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm.
(Khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm)

13. Quán pháp như hóa, tam muội thường tịch.
(Quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch)

14. Phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, A Di Đà Phật.

15. Phụng trì trai giới.

16. Hữu không nhàn thời, đoan chánh thân tâm, tuyệt dục khử ưu, từ tâm tinh tấn.
(Hễ có lúc rảnh rỗi liền đoan chánh thân tâm, tuyệt dục, bỏ lo lắng, từ tâm tinh tấn)

17. Bất đương sân nộ tật đố.
(Không nên hờn giận, ganh ghét)

18. Yếu đương hiếu thuận, chí thành trung tín.
(Phải nên hiếu thuận, chí thành, trung tín)

19. Đương tín tác thiện đắc phước.
(Nên tin làm lành được phước)

20. Bất đắc tham thiết xan tích.
(Không nên tham tiếc, keo kiệt)

21. Bất sát sinh.
22. Bất thâu đạo.
23. Bất dâm dục.
24. Bất vọng ngôn.
25. Bất ỷ ngữ.
26. Bất ác khẩu.
27. Bất lưỡng thiệt.
28. Bất tham.
29. Bất sân.
30. Bất si.
(Không giết hại sinh vật, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không thêu dệt, không nói lời hung dữ, không nói đâm thọc, không tham lam, không giận hờn, không si mê)

31. Kiểm liễm đoan trực, thân tâm khiết tịnh.
(Kiềm chế, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực, thân tâm khiết tịnh)

32. Phụ tử huynh đệ phu phụ thân thuộc, đương tương kính ái.
(Cha con anh em, vợ chồng thân thuộc nên thương kính nhau)

33. Ngôn sắc thường hòa, mạc tương vi lệ.
(Nói năng hòa nhã, đừng chống đối nhau)

34. Trạch kỳ thiện giả, cần nhi hành chi.
(Chọn lựa điều thiện để siêng năng thực hành)

35. Đương cần tinh tấn.
(Phải nên siêng năng tinh tấn)

36. Vật đắc tùy tâm sở dục, khuy phụ kinh giới.
(Đừng theo tâm tham dục, cô phụ kinh giới)

37. Hà bất ư cường kiện thời, nỗ lực tu thiện, dục hà đãi hồ.
(Lúc còn cường tráng sao không nỗ lực tu thiện, đợi đến lúc nào?)

38. Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện.
(Kính Phật là điều đại thiện)

39. Thực đương niệm phật, tiệt đoạn hồ nghi.
(Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi)

40. Khai thị chánh đạo, độ vị độ giả.
(Khai thị chánh đạo, độ người chưa độ)

41. Tẩy trừ tâm cấu.
(Rửa trừ cấu nhơ trong tâm)

42. Ngôn hạnh trung tín, biểu lý tương ứng.
(Nói năng hành động thành tín, trong ngoài hợp nhất)

43. Thụ Phật minh hối, chuyên tinh tu học, như giáo phụng hành, bất cảm hữu nghi.
(Vâng lời Phật dạy chuyên cần tu học, y giáo phụng hành, không dám có lòng nghi ngờ)

44. Đoan tâm chánh ý, bất vi chúng ác.
(Tâm ý chánh trực, không làm điều ác)

45. Đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương phó, sở tác chí thành.
(Đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương xứng, việc làm chí thành)

46. Độc tác chư thiện, bất vi chúng ác.
(chỉ làm các điều thiện, không làm các điều ác)

47. Tôn thánh kính thiện.

48. Nhân từ bác ái.

49. Thân tâm khiết tịnh, dữ thiện tương ứng.
(Thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng)

50. Vật tùy thị dục, bất phạm chư ác.
(Đừng theo thị dục, không phạm điều ác)

51. Ngôn sắc đương hòa, thân hành đương chuyên, động tác chiêm thị, an định từ vi.
(Ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh từ tốn)

52. Từ tâm chuyên nhất, trai giới thanh tịnh.

53. Tự tương ước kiểm, hòa thuận nghĩa lý, hoan nhạc từ hiếu.
(Cùng nhau kiểm điểm, hòa thuận đạo nghĩa, hoan hỷ từ hiếu)

54. Sở tác như phạm, tắc tự hối quá.
(Nếu có sai phạm phải tự hối cải)

55. Khứ ác tựu thiện, triêu văn tịch cải.
(Bỏ ác làm lành, sáng nghe tối sửa)

56. Cải vãng tu lai, tẩy tâm dịch hạnh.
(Sửa xưa tu nay, gột rửa thân tâm)

57. Tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao.
(Tâm không tự ti, cũng không cống cao)

58. Vị cầu pháp cố, bất sinh thoái khuất siểm ngụy chi tâm.
(Vì để cầu pháp này thì chớ nên sanh lòng thoái chuyển, cong vạy, siểm ngụy)

59. Đương hiếu ư Phật.
(Nên hiếu với Phật)

60. Thường niệm sư ân.
(Thường nghĩ đến ơn thầy)

61. Chủng tu phước thiện, cầu sinh tịnh sát.
(Vun bồi phước thiện, cầu sanh cõi tịnh)

62. Tích công lũy đức.
(Tích lũy công đức)

>> Xem tiếp phần 3: Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh (trích lục 39 điều)
<< Xem phần trước: Tịnh Tông Đồng Học Tu Hành Thủ Tắc